Nithin Coca
2021-05-02
Hình minh hoạ. Nhiệt
điện Vĩnh Tân ở Bình Thuận. Hình chụp hôm 23/4/2019. AFP
Trong khi than đang bị dần loại bỏ ở thế giới
phát triển vì những quan ngại về ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, loại
nhiên liệu này hiện vẫn là một lựa chọn năng lượng đang ngày một gia tăng ở nhiều
nơi tại Đông Nam Á với vốn đầu tư từ Trung Quốc.
Trong khi nhiều thị trường, bao gồm Mỹ, Châu
Âu và Đông Á, đang tránh sử dụng than, các ngân hàng, các công ty xây dựng và
năng lượng của Hoa Lục vẫn tiếp tục cam kết cung cấp tài chính và xây dựng hàng
chục nhà máy chạy than ở Indonesia, Việt Nam, Campuchia và Lào.
Điều này diễn ra bất chấp những quan ngại về sự
xuống cấp của môi trường, mức cung về điện vượt quá mức cầu, và ô nhiễm không
khí. Than hiện được nhiều nơi xem là nguồn nhiên liệu hoá thạch bẩn nhất cho việc
phát điện, với việc thải khí gây hiệu ứng nhà kính cao nhất, cộng thêm là các vấn
đề về chất lượng đất, nước và không khí rộng khắp do việc khai thác, đốt và chất
thải từ than.
Bầu trời Hà Nội bao
phủ bởi khói bụi hôm 27/9/2019. Hình AFP
“Rõ ràng là Trung Quốc là nhà đầu tư chính cho
than ở Đông Nam Á”, Isabella Suarez, một nhà phân tích ở Philippines thuộc
Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và không khí sạch (CREA) nói. “Nếu bạn nhìn vào
hồ sơ đầu tư ở nước ngoài của than Trung Quốc, thì Indonesia, Việt Nam đứng thứ
hai và thứ ba trên thế giới”.
Nhiệt điện than chiếm 56% năng lượng điện của Indonesia, 34,3% ở Việt Nam và 29,3% ở Campuchia.
Trung Quốc thống
trị than ở nước ngoài
Trung Quốc là nước duy nhất ngày càng tích cực
trong việc theo đuổi việc đầu tư vào các dự án than. Các tổ chức tài chính của
Trung Quốc bao gồm Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc, Ngân hàng Trung Quốc, ICBC,
và Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc được xếp vào những tổ chức đứng đầu danh
sách 11 tổ chức cung cấp tài chính cho nhiệt điện than và top 10 tổ chức cung cấp
tài chính cho việc khai thác than. Đó là kết quả theo báo cáo có tựa Banking on Climate Chaos được công bố vào cuối tháng
ba của một liên minh các tổ chức NGO quốc tế bao gồm Rainforest Action Network
(Mạng lưới Hành động bảo vệ rừng), Sierra Club, và Oil Change International.
Báo cáo cho thấy trong tổng số vốn đầu tư, các
ngân hàng Trung Quốc chiếm tới 244,7 tỷ đô la đầu tư vào lĩnh vực liên quan đến
than kể từ năm 2016, nhiều hơn các ngân hàng lớn nhất của Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật
Bản, Hàn Quốc và Canada cộng lại.
Các dự án do Trung Quốc tài trợ ở Đông Nam Á
bao gồm cơ sở 8 của trạm phát điện Baten
Suralaya với công suất 625 MW và các nhà máy Bangko Tengah Sumsel 8 với
công suất 1.200 MW ở Indonesia; nhà máy điện Vĩnh tân 3 với
công suất 1.980 MW ở Việt Nam; trạm phát điện Botum
Sakor 700 MW ở Campuchia; và trạm phát điện Dinginin 668 MW ở
Philippines.
Các cộng đồng cư dân địa phương tích cực phản
đối các dự án này vì ảnh hưởng lên môi trường và xã hội. Nhà máy Sumsel 8 ở
Indonesia là một dự án đặc biệt gây quan ngại vì cơ sở khai thác than lộ thiên
mà gần đó nhà máy nhiệt điện than được xây dựng.
“Khi các nhà máy này hoạt động, cộng đồng dân
cư gần đó sẽ phải đối mặt với ảnh hưởng kép”, chuyên gia Pius Ginting - Giám đốc
điều hành của tổ chức Akssi Ecologi Dan Energi Rakyat (AEER) ở Jakarta nói. Đây
là tổ chức lên tiếng phản đối các dự án than của Trung Quốc. “Một là ô nhiễm nước
và không khí từ nhà máy than, thứ hai là từ việc khai thác than, vì mỏ than
cũng nằm cùng nơi”.
AEER (Năng lượng của người dân và hành động
sinh thái) hôi đầu năm 2021 đã gửi một bức thư bày tỏ quan ngại đến nhà cung cấp
tài chính chính là Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Trung Quốc, công ty đi đầu trong việc
xây dựng dự án nhiệt điện này tại Indonesia, Tập đoàn Huadian của Trung Quốc,
và Đại sứ quán Trung Quốc tại Jakarta. AEER vẫn chưa nhận được phản hồi nào.
Bên cạnh những tác động về môi trường, chuyên
gia Ginting lo ngại là việc tài trợ từ Trung Quốc cho các dự án than sẽ khiến Indonesia
khó có thể đầu tư vào năng lượng tái tạo.
Một tàu chở than ở
sông Mahakam ở Samarinda, Indonesia hôm 2/3/2016. Reuters
Lo ngại ô nhiễm và
tài chính
Một mối lo ngại nữa là ô nhiễm không khí. Các
thành phố ở Đông Nam Á bao gồm Jakarta và Hà Nội thường xuyên bị xếp vào các thành phố ô nhiễm nhất thế giới, và than là tác nhân gây
ra tình trạng này do sự hiện diện của các nhà máy than do Trung Quốc tài trợ.
Theo một báo cáo vào năm 2020 của CREA, ô nhiễm
qua biên giới từ các nhà máy nhiệt điện than ở các tỉnh láng giềng, như nhà máy
do Trung Quốc tài trợ ở Baten, có thể dẫn đến ảnh hưởng đến sức khoẻ cao một
cách đáng kể ở Jakarta. Tương tự, một phân tích vào tháng ba năm 2021 ở Việt
Nam cho thấy 24 nhà máy nhiệt điện than đã được lên kế hoạch, phần lớn được
Trung Quốc đầu tư, có thể khiến 70.000 người chết sớm.
Một nhân tố lớn là thiếu tiêu chuẩn về kiểm
soát ô nhiễm.
“Các nhà máy than đang được xây dựng ở nước
ngoài nhìn chung gây ô nhiễm nhiều hơn và ít hiệu quả hơn so với các nhà máy được
xây dựng ở trong Trung Quốc”, Chuyên gia Suarez cho biết.
Một quan ngại nữa là những thoả thuận này đặt
gánh nặng tài chính trong thời gian dài lên nước nhận đầu tư, bằng cách khoá chặt
họ vào điều khoản thanh toán dài hạn ngay kể cả nếu như nhà máy đó không còn cần
thiết nữa. Khi xem xét tuổi đời rất lâu của các nhà máy điện chạy than - lên đến
50 năm - các nước như Indonesia, Việt Nam, Campuchia có thể sẽ phải trả cho
Trung Quốc vì năng lượng bẩn trong nhiều thập kỷ.
“Đối với Trung Quốc, đó là một trò chơi dễ
dàng. Cung cấp vốn lưu động, xây dựng một nhà máy với lực lượng lao động của
chính họ, rồi sau đó phía bên kia sẽ trả lại tiền, và thế là tôi đòi lại được
tiền cho vay của mình”, chuyên gia Ghee Peh, một nhà phân tích tài chính năng
lượng than ở Hong Kong thuộc Viện Kinh tế Năng lượng và phân tích tài chính
(IEEFA), cho biết. Theo IEEFA, phần lớn các tài trợ than của Trung Quốc ở nước
ngoài tận dụng nguồn lao động Trung Quốc là chủ yếu, bao gồm các nhà thầu Trung
Quốc, công nghệ Trung Quốc. Điều này đặt ra câu hỏi nền kinh tế địa phương thực
sự được lợi bao nhiều từ các thoả thuận này.
Hình: RFA
Chờ đợi các lời hứa
xanh từ Trung Quốc
Trong năm qua, những nhà cung cấp tài chính lớn
thứ hai và thứ ba cho các dự án nhiệt điện than ở Đông Nam Á là Nam Hàn và Nhật
Bản đã công bố kế hoạch giảm dần các khoản đầu tư vào than. Sau đó, vào đầu năm
nay, Ngân hàng CIMB ở Malaysia tuyên bố ngân hàng này cũng loại bỏ than khỏi hồ
sơ đầu tư chậm nhất đến năm 2040. Đây là ngân hàng đầu tiên ở Đông Nam Á làm
như vậy.
Đã có nỗ lực nhằm đưa các nguyên tắc xanh và bền
vững vào Sáng kiến Vành đai Con đường (BRI), một chiến lược phát triển hạ tầng
cơ sở do chính phủ Trung Quốc đầu tư đưa ra vào năm 2013 nhằm đầu tư vào gần 70
quốc gia khắp thế giới. Cũng đã có hy vọng rằng việc Trung Quốc thêm điều khoản
“Văn minh sinh thái” vào năm 2018 là một phần của chương trình phát triển kinh
tế bền vững sẽ đồng nghĩa với việc ít đầu tư hơn cho than.
Tuy nhiên, tại Đông Nam Á, hiện vẫn chưa có dấu
hiệu nào cho thấy Trung Quốc sẽ theo các nước láng giềng và ngừng xuất khẩu
cũng như tài trợ rộng rãi cho công nghệ than gây ô nhiễm trong khu vực.
“Cho đến khi có được những hướng dẫn chính
sách cho các tổ chức đầu tư, chúng tôi sẽ không nhìn thấy thay đổi nào, và đó
là lý do một Sáng kiến Vành đai Con đường xanh vẫn chưa thực sự xảy ra”, chuyên
gia Suarez nói. “Việc đầu tư ra nước ngoài thì tốt cho các tổ chức nội địa của
họ (Trung Quốc) và giúp cho nền kinh tế của chính họ”
=============
Tin, bài liên quan
·
Hàn
Quốc dừng cung cấp tài chính cho nhiệt điện than ở nước ngoài, trong đó có Việt
Nam
·
Xóa
bỏ độc quyền trong ngành điện: Chậm ngày nào, hại ngày ấy
·
Bản
quy hoạch điện gây nhiều tranh cãi đã được trình lên Chính phủ Việt Nam
·
Phát
triển điện than: Việt Nam có cần đi ngược xu thế toàn cầu?
·
Công
ty của Nhật Bản và Nam Hàn tiếp tục đầu tư vào dự án điện than tại Việt Nam
·
Các
nước tiếp tục rơi vào bẫy nợ của Trung Quốc trong đại dịch COVID-19
·
Quan
hệ với Trung Quốc: ‘Chính phủ Việt Nam phải nghe dân, bằng không sẽ mất hết quyền
lợi dân tộc’
·
Việt
Nam vỡ quy hoạch điện mặt trời: “Chính sách sai từ ban đầu”
·
Nhiệt
điện than đi ngược nỗ lực giảm biến đổi khí hậu toàn cầu
·
Đề
xuất giá điện chưa công bố được đóng dấu mật: Vì sao?
No comments:
Post a Comment