Nghiên
cứu chế tạo chip ở Việt Nam
Chu
Hảo
27/05/2021 18:34
https://www.diendan.org/viet-nam/nghien-cuu-che-tao-chip-o-viet-nam
Chuyện bây giờ mới
kể
NGHIÊN
CỨU CHẾ TẠO CHIP Ở VIỆT NAM
Chu
Hảo
Có lẽ tôi thuộc thế hệ đầu tiên những người
dính dáng đến Công nghệ Vi điện tử (CNVĐT) ở Miền Bắc nước ta từ cuối những năm
cuối thế kỷ trước. Cho nên, mới đây khi đọc thư của một người bạn ca ngợi thành công của Tập đoàn TSMC (Công ty sản xuất chip của
Đài Loan) và đặt câu hỏi : “ Chiến lược nào giúp VN có một công ty sản
xuất chip chuyên nghiệp vừa phục vụ nhu cầu nội địa vừa gia công cho thiên hạ ?”,
tôi nghĩ là mình phải góp đôi lời vào câu chuyện này.
Là người trong cuộc ở giai đoạn ban đầu ấy tôi
xin thưa ngay: Chiến lược đó được đề xuất từ những năm 70 thế kỷ XX, và giới
KHCN có liên quan đã cố gắng không ngừng nghỉ để triển khai. Tiếc thay tất cả
chỉ là một “ thất bại toàn tập ”, mà cái thất bại cuối cùng mới xảy ra gần đây
thôi (sẽ được kể ở phần cuối bài này).
Tôi là người trong cuộc vì năm 1976 khi đang
nghiên cứu (về lý thuyết chất rắn) ở Viện Vật lý thì Anh Nguyễn Văn Hiệu
(Viện trưởng Viện KHVN) có ý định giao cho tôi làm Vụ trưởng Vụ kế hoạch. Tôi
phân trần với anh rằng tôi chỉ muốn làm chuyên môn, nhưng anh gạt đi : “ Cậu vẫn
làm chuyên môn, cậu cùng làm về lý thuyết bán dẫn với tớ ”. Tôi bảo tôi không
làm được đâu ạ! Quản lý Kế hoạch là một nghề nghiêm chỉnh, không kiêm được đâu,
anh tha cho. Sau đó tôi biết là mình phải ra đi vì nghĩ rằng nếu ở lại thì
không làm chuyên môn được nữa. Tôi tìm gặp anh Vũ Đình Cự ở Khoa Toán Lý ĐHBK
HN hỏi xem có thể về chỗ ấy giảng dạy được không? Anh hồ hởi bảo về ngay đi! Mấy
ngày sau tôi mang công văn xin làm cán cán bộ giảng dạy của ĐHBKHN, kèm
theo Đơn xin thôi việc lên trình Viện trưởng. Buổi sáng lên trình bày bị anh ấy
đuổi về, đầu giờ chiều lại lên, cũng bị đuổi về. Đấy là một ngày mưa tầm tã,
tôi buồn chán đến não lòng và nghĩ rằng đây là ngày định mệnh, hôm nay không
xin đi được thì không bao giờ nữa! Thế là tôi lại lên phòng Viện trưởng. Mở cửa
ra thấy ánh mắt rất chán nản của anh mà sợ, nhưng tôi cứ bước tới đặt lá đơn
lên bàn. Thật bất ngờ, chẳng nói chẳng rằng, anh phê luôn chữ “Đồng ý!”, rồi ký
mạnh đến nỗi rách cả giấy! Phải mấy năm sau tôi mới gặp lại anh trong bầu không
khí thân thiện vui vẻ, như chẳng có việc gì xảy ra.
Anh Cự giao cho tôi tiếp tục giảng giáo trình
Vật lý chất rắn cho sinh viên năm thứ ba mà anh đang đảm nhận, đồng thời đồng ý
cho tôi chuyển sang nghiên cứu Vật lý các linh kiện bán dẫn cho gần với thực nghiệm
hơn, để chuẩn bị tham gia êkip xây dựng Phòng thí nghiệm VĐT (Vi điện tử) do Hà
Lan giúp đỡ. Đó có thể coi là phòng thí nghiệm đầu tiên ở nước ta trong lĩnh vực
này để nghiên cứu và giảng dạy. Đây phòng thí nghiệm chế tạo mạch tích hợp cỡ
nhỏ trên cơ sở liên kết các linh kiện đơn cực MOS (một loại transistor) được tạo
ra trên bề mặt phiến silic bằng công nghệ SILOX, đồng bộ tất cả các khâu xử lý
phiến silic từ đầu đến lúc thành các mạch (logic) tích hợp. Tôi phụ trách Phòng
thí nghiệm này với rất nhiều hoài bão chế tạo Chip. Công việc đang vào đà phấn
chấn thì cuối năm 1979 chương trình hợp tác với Hà Lan phải dừng lại vì chính
phủ nước này phản đối mạnh mẽ việc Việt Nam “xâm lược” Campuchia. Phòng thí
nghiệm dừng hoạt động. Đấy là thất bại thứ nhất.
Thất bại thứ hai liên quan đến Nhà máy Z181 của
Bộ Quốc phòng sản xuất (gia công) các linh kiện bán dẫn do khối SEV giúp đỡ và
đặt hàng. Đến 1989, khi Liên Xô (LX) và các nước XHCN Đông Âu tan rã, cơ sở này
cũng tan rã theo.
Sau khi phòng thí nghiệm VĐT ĐHBKHN ngừng hoạt
động, tôi may mắn nhận được học bổng một năm của Chính phủ Pháp do Bộ
ĐH&THCN phân cho ĐHBK HN. Tôi sang Pháp đầu năm 1980. Vì vẫn mơ ước được
góp phần xây dựng ngành CNVĐT cho VN nên tôi lại chọn chuyên ngành Vật lý các
linh kiện bán dẫn ở ĐH Lille (chủ yếu tham gia giảng dạy), đồng thời tham gia
nhóm nghiên cứu ở ĐHBK Grenobe. Lúc đó ở Châu Âu sản xuất các linh kiện
bán dẫn cỡ mm, thì ở Grenobe chúng tôi đã nghiên cứu MOS cỡ nanometre. Vì có kết
quả nghiên cứu tốt nên tôi được Phòng thí nghiệm VĐT ở Lille cho ở lại làm luận
án TSQG (Docteur d’ Etat). Tôi xin mở ngoặc kể thêm một chuyện “thất bại” của
riêng cá nhân tôi cho vui. Khi sắp nộp luận án thì anh Nguyễn Đình Tứ, lúc ấy
là Bộ trưởng Bộ ĐH&THCN lệnh cho Sứ Quán báo cho tôi không được bảo vệ vì Sứ
quán LX ở Hà Nội phản đối với lý do bằng PTS của LX tương đương với TSQG Pháp
(?!). Tôi viết thư về cho anh Tứ nói rằng tôi không quan tâm đến sự tương đương
đó, tôi chuẩn bị bảo vệ một luận án với chuyên môn hoàn toàn khác, và rằng ngày
xưa ông Trần Đại Nghĩa lấy vài bằng kỹ sư bên Pháp cơ mà. Nhưng đương
nhiên là không có thư trả lời và tôi “y án”. Đáng lẽ sau anh Trần Mạnh Trí là
người đầu tiên có bằng PTS ở Nga về Hóa Dầu, sang Pháp trước tôi ít lâu, bảo
thành công luận án TSQG Pháp vào năm 1983, thì sau đó đến tôi là người thứ hai
có điều kiện làm như anh Trí. Nhưng đầu năm 1985 tôi đành hậm hụi ra về. Và từ
đó không có ai đã nhận bằng PTS LX được sang Pháp làm TSQG nữa! Tuy vậy sau này
tôi vẫn có học hàm TS của nước nhà (“chỉ sau một đêm” như vẫn được mang ra riễu
cợt) giống các bạn đồng nghiệp khác. Lúc biết tôi không được bảo vệ anh Vũ Đình
Cự nhắn tôi về nước ngay có việc hay lắm. Mà hay thật!
Về HN hôm trước, hôm sau tôi đến chỗ anh Cự.
Anh bảo “ Ở nhà bọn mình đang xin thành lập Viện Vật lý kỹ thuật (VLKT)
trực thuộc ĐHBK HN như các trường ĐH nghiên cứu ở bên ấy. Khốn nỗi ở VN ta Viện
nghiên cứu ngang với Trường ĐH, nên Bộ ĐH&THCN và Ủy ban KH&KT không đồng
ý, phải xin cụ Văn ( ĐT Võ nguyên Giáp lúc ấy Phó Chủ tịch HĐBBT) thôi! Cậu mới
ở bên ấy về, lên giải thích chắc Cụ nghe đấy”. Cụ nghe thật! Và đấy là Viện
nghiên cứu, nằm trong một Trường Đại học, lần đầu tiên xuất hiện ở nước ta.
Nhưng đấy mới là màn dạo đầu của anh Cự
thôi. Xong việc thành lập Viện VLKT, chúng tôi (Vũ Đình Cự, Trần Đình Anh
và tôi) bắt tay ngay vào việc xúc tiến thành lập Viện Nghiên cứu Công nghệ Quốc
gia (NCCNQG). Vào thời gian ấy ông PCT HĐBT phụ trách kinh tế Tố Hữu mới đi họp
khối SEV về, báo cáo ông Thủ tướng Đỗ Mười một thông tin quan trọng: LX và các
nước XHCN thừa nhận kém hẳn phương Tây về các công nghệ cao phục vụ phát triển
kinh tế. Hai ông gọi anh Cự lên hỏi ý kiến và đi đến kết luận : Giao cho
GS-TSKH Vũ Đình Cự thành lập một cơ sở KHKT mới với mục đích học tập công nghệ
tiền tiến của phương Tây. Viện NCCNQG ra đời trong hoàn cảnh ấy. Anh Cự còn nói
rõ là các cụ ấy cho cơ chế rất đặc biệt : ngang tầm với Viện KHVN của anh Nguyễn
Văn Hiệu và Viện Năng lượng Nguyên tử của anh Nguyễn Đình Tứ, tức là như một
đơn vị hành chính cấp Bộ, có dấu hình Quốc huy hẳn hoi; Hơn nữa lại hoạt động
theo quy chế MẬT, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng và Phó Thủ tướng phụ
trách kinh tế.
Lúc đầu Viện NCCNQG do anh Cự là Viện trưởng
chỉ có ba đơn vị nghiên cứu : 1).Viện Công nghệ laser do anh Trần Đình Anh (do
Bộ CA phái sang làm Viện phó Viện NCCNQG) kiêm nhiệm Viện trưởng viện này. Mục
tiêu đầu tiên là nghiên cứu ứng dụng Công nghệ laser vào y tế và quốc phòng .
2). Viện Công nghệ VĐT, do tôi phụ trách, nhiệm vụ trước mắt là nghiên cứu chế
tạo và sản suất máy Vi tính bắt đầu từ loại CPU 8 bit rồi 16 bít. 3). Viện Công
nghệ quang điện tử, do anh Đặng Xuân Cự (cũng từ Bộ CA sang, phụ trách), nhiệm
vụ bước đầu là nghiên cứu ứng dụng Cáp quang trong Viễn thông.
Thế là tôi lại nuôi mộng làm Chip, bắt đầu từ
việc chế tạo máy tính để bàn với con CPU 8 bit mạnh nhất của Nhật lúc đó. Mấy kỹ
sư phần cứng và phần mền học ở Hung về ngày đêm miệt mài làm việc. Khoảng cuối
năm 1988 thì 10 chiếc máy tính 8bit đã được sản xuất loại Prototype. Tất cả
linh kiện và bàn phím đều mua của nước ngoài. Thiết kế, BIOS (Basic Input
Output System), phần mềm giao diện và điều khiển bàn phím đều do ta tự làm. Bước
tiếp là nhập dây chuyền lắp bảng mạch chính (Main board) và lắp ráp hàng loạt để
cung cấp cho Bộ GD&ĐT. Đang lắp ráp dây chuyền thì không may, do nhóm trực
ban đêm sơ suất để kẹt motor máy ổn áp gây ra vụ cháy rất tệ hại, thiêu trụi
toàn bộ Phòng Vi tính đã được đầu tư khoảng 100 nghìn USD (lúc ấy cho nghiên cứu
là to lắm!). Tôi suýt bị truy tố, còn cả Viện thì hoang mang! Chúng tôi phải
còng lưng buôn bán máy tính để hoàn vốn đầu tư đã làm thất thoát. Thế là tiêu
ma luôn cả Dự án cho bước tiếp theo là mua dây chuyền sản suất mạch tích hợp của
Hung trị giá 2 triệu USD mà chúng tôi đàm phán đã gần xong. Lúc ấy chúng tôi
còn hơi sức đâu mà lo đến việc làm Chip nữa! Đó là thất bại thứ 3 mà tôi trực
tiếp gánh chịu.
Thất bại thứ 4 là chủ yếu là đối với Khu CNC
(Công nghệ cao) Hòa Lạc, liên quan đến việc mời Intel vào VN lập nhà máy làm
Chip. Tôi đã đeo bám Dự án này của Intel hơn hai năm trời, bắt đầu từ cuộc gặp
đầu tiên với anh Thân Trọng Phúc, đại diện Itel ở Việt nam, vào năm 1999 thì phải.
Tôi hỏi anh: “ muốn đưa Intel vào Khu CNC Hòa Lạc thì phải bắt đầu từ đâu? ”. Về
sau này khi trả lời phỏng vấn anh nói rằng thật ngạc nhiên thấy một quan chức cấp
Bộ hỏi một cách thẳng tưng và cụ thể như vậy. Thế là hai chúng tôi vạch ra một
lộ trình cụ thể, từng bước, từng bước dòng rã hàng năm trời thuyết phục ông chủ
tịch Intel và bộ sậu của ông chuyển Dự án Xây dựng Nhà máy mới từ Thái Lan về
VN. Thủ tướng Phan Văn Khải rất ủng hộ và chỉ thị các Bộ phối hợp thỏa mãn mọi
yêu cầu của Intel thông qua Tổ công tác đặc biệt (task force) do anh Nguyễn Mại
(phó chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch và đầu tư - chú thích của Diễn Đàn) đứng đầu.
Khi Intel đã đồng ý chọn VN thì vấn đề làm cho tôi đau đầu là Chính phủ có ý kiến
cho họ lựa chọn giữa Khu CNC Hòa Lạc hay Khu CNC Sài Gòn, họ vào chỗ nào đều tốt
cho VN cả. Tôi ra sức vận động Tổ đặc nhiệm thuyết phục Thủ tướng Phan Văn
Khải và Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm ép bằng được Intel chấp nhận triển
khai Dự án ở HN vì hai lý do rất chính đáng : 1) Khu CNC cần phải đặt ở nơi có
nhiều Viện nghiên cứu và Trường ĐH mạnh. Vào lúc ấy 70% lực lượng này nằm ở
phía Bắc. 2) Theo quan sát thực địa của chúng tôi ở Thái Lan và Malaysia Intel
đến đâu cũng sẽ kéo theo rất nhiều công ty công nghệ cao khác đến đầu tư quanh
vùng đó, như vậy sẽ tạo được sự cân bằng công nghiệp giữa hai miền. Tôi nói
Chính phủ phải ép Intel đầu tư ở HN như ngày trước đó ông Võ Văn Kiệt đã ép
Daewoo mới hợp lý. Nhưng hôm chuẩn bị hội đàm phiên cuối cùng, anh Thân Trọng
Phúc nói với tôi: “ Chính quyền Tp HCM đang vận động cho Khu CNC Sài Gòn rất mạnh.
Họ hứa là ngoài các ưu đãi mà TW đã thỏa thuận, chính quyền địa phương sẽ ưu
đãi thêm “một chút” nữa nếu Intel đầu tư ở Sài Gòn. Anh có “ bài” gì mới thì
đưa ra ngay không thì thua đấy!”. Tôi nghĩ là khéo “thua”, vì cái “một chút”
kia chắc to lắm! Và sau đấy thì biết chắc chắn là thua vì có lời nhắn nhủ từ cấp
trên : “ Nó vào đâu cũng có lợi đất nước, anh Chu Hảo mà làm căng quá để nó bỏ
VN là có tội to đấy!”. Thế là tôi “công cốc dã tràng”: đặt cược một cửa vào
Intel cho kết quả bằng Zero đối với Khu CNC Hòa Lạc. Còn nhà máy chế tạo Chip ở
Khu CNC Tp HCM vẫn là của nước ngoài chứ hình như chưa có gì gọi là chuyển giao
công nghệ. Thế cũng là thất bại.
Thất bại thứ năm mới xảy ra vài năm gần đây
liên quan đến các Dự án đầu tư do ICDREC (Trung tâm Thiết kế Nghiên cứu Đào tạo
Mạch tích hợp) của ĐHQG Tp HCM) chủ trì, nhằm xây dựng một tổ hợp nghiên cứu và
sản xuất Chip hùng mạnh và duy nhất của VN. Tôi đã mừng vì cuối cùng ước vọng
VN sản xuất được Chip sắp thành hiện thực. Nhưng rồi, đề án này tốn kém hằng
trăm tỷ đồng cũng không dẫn tới đâu, không làm bậc lên các con chip “made in
Vietnam” như nhiều người đã "đặt kỳ vọng" vào nó.
Thế đấy, đúng là thất bại toàn tập phải
không quý vị ?
“Bao giờ cho đến tháng 10 ”?
Hà Nội mùa Covid-19 tháng 5 năm 2021
Chu
Hảo
Nguồn: Tác giả gửi Diễn
Đàn.
No comments:
Post a Comment