Harry F. Noyes III
Triệu Phong chuyển ngữ
Tháng Tư 26, 2019
Bản dịch từ nguyên
tác có tựa “Heroic Allies” của Harry F. Noyes III, đăng trong tạp chí
Vietnam, số tháng 8 – 1993. Tác giả là cựu chiến binh Việt Nam trong binh chủng
Không Quân Hoa Kỳ. Sau cuộc chiến trở về, ông lấy văn bằng cao học về Nghiên Cứu
Á Châu ở trường Đại Học Hawaii.
Triệu Phong chuyển
ngữ
(25.04.2007)
*
Trong suốt quá trình chiến đấu để bảo
vệ đất nước mình, Nam Việt Nam đã thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ trên chiến
trường.
Họ vóc dáng nhỏ
con, nói chuyện líu lo như chim hót, ưa thêm nước mắm vào mọi món ăn, và thường
hay nắm tay nhau.
Không lạ gì lính Mỹ
khi qua viễn chinh ở vùng Đông Nam Á – hầu hết đều là trai trẻ, học thức bình
thường, được rập khuôn trong một xã hội quá cao ngạo và quá ít hiểu biết về những
nền văn hóa khác – khó lòng cảm thông được với những người chiến binh Miền Nam
Việt Nam.
Điều đáng tiếc hơn
nữa là nhiều cựu chiến binh lúc trở về lại đi gia nhập vào hàng ngũ của những
nhóm gây rối, trốn lính và hoạt đầu chính trị để bêu xấu danh dự của một đạo
quân nay không còn có thể tự đứng ra bào chữa được mình. Nhục mạ một đạo quân
đã mạng vong trong chiến trận do nước Mỹ bỏ rơi là một hành vi đê tiện, không xứng
danh là người chiến binh Hoa Kỳ.
Chắc một số người sẽ
cho rằng điều khẳng định của tôi là quá đáng. Vậy chứ tôi phải làm thế nào để
bào chữa cho họ đây? Mọi người đều “cho” họ là một lũ bất tài, phản trắc và hèn
nhát, phải như vậy không?
Không, hoàn toàn
sai. Bài viết này sẽ trưng ra một vài chứng cớ hùng hồn để đánh đổ cái huyền
thoại thô bỉ này, đồng thời cũng sẽ khảo sát xem do đâu phát sinh ra huyền thoại
ấy.
Dĩ nhiên phải công
nhận là quân lực Nam Việt không toàn hảo. Người chiến binh của họ phải chiến đấu
với những kẻ lãnh đạo tồi, những quân nhân hèn nhát, chịu đựng những cuộc khủng
hoảng, những biến cố tai ương, bất lợi. Quân lực Mỹ ở Đông Nam Á cũng không hơn
gì đâu.
Trên một số phạm vi
như cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và lãnh đạo, quân lực Nam Việt thua bên
phía Mỹ. Nhưng có ai trông mong gì khác hơn từ một quốc gia đang phát triển, mới
vừa thoát khỏi ách thuộc địa lại phải lao đầu vào một cuộc chiến sinh tử với một
quân thù hùng mạnh được cả một khối Cộng Sản yểm trợ?
Thực tế mà nói, những
nhược điểm của Nam Quân cũng hệt như của quân Mỹ thời chiến tranh Độc Lập của
Hoa Kỳ (American War of Independence), dù rằng nước Mỹ hồi cuối thế kỷ thứ 18
có nhiều điểm thuận lợi như: cái qui mô của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng
(Revolutionary War) nhỏ hơn và dễ chi phối hơn; quá trình thuộc địa Hoa Kỳ đã
giúp hình thành được những chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước
này hun đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự; quân Anh không quá ngoan cố
như quân Bắc Việt; và quân đồng minh Pháp thời bấy giờ đã không bỏ rơi nước
Mỹ non trẻ như người Mỹ đã bỏ rơi Nam Việt Nam.
Nhưng dù sao chăng
nữa, cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và ngay cả lãnh đạo đi chăng nữa vẫn
chưa phải là những phẩm chất để dựa vào đó mà phỉ báng quân lực Nam Việt.
Có hai câu hỏi đánh
động đến đề tài tranh cãi. Phải chăng người chiến binh Nam Việt thiếu chí khí,
lòng quả cảm, sự can trường và lòng ái quốc mà người Mỹ đã nêu ra trong lời miệt
thị và gán lên đầu họ mọi trọng tội vì đã đánh mất cái giá tự do của vùng Đông
Nam Á? Quân Mỹ có khá gì hơn đồng minh của mình để dám khinh khi họ như vậy? Trả
lời cho cả hai câu hỏi, tôi xin trân trọng khẳng định là “Không!”
Chứng cớ quá rõ
ràng. Trận Tổng Công Kích Tết 68 (Mậu Thân) coi như sẽ đập tan được ý chí chiến
đấu của Nam Việt. Thay vì bỏ cuộc, quân NV đã kháng cự mãnh liệt và hữu hiệu:
không một đơn vị nào tan rã hay tháo chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ
đương đầu với quân chính qui đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với chỉ bằng
những khẩu súng Colts. Dựa theo báo cáo, sau trận này số người xin đăng lính
cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này phải đình hoãn bớt việc thu nhận thêm
tân binh.
Trong cuộc Tổng Tấn
Công năm 72, quân trú phòng NV bị vây hãm tại An Lộc đã giữ vững được vị trí của
mình trước một lực lượng ghê gớm của quân thù cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn
của đại pháo và hỏa tiễn. Sau trận này tôi được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để
nghe tường thuật lại mẩu chuyện một tiểu đội lính NV trong vùng được giao công
tác thanh toán ba chiến xa địch, và đã hành động như thế nào. Họ chu toàn nhiệm
vụ hạ được một chiếc, rồi quyết định tìm cách bắt sống hai chiếc còn lại. Theo
tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc bỏ chạy, thế là mấy người lính
chạy bộ rượt theo đến cuối đường. Việc thi hành thượng lệnh của mấy người lính
này có thể không đúng tác phong quân kỷ, nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần
chiến đấu cao và thế chủ động mà mọi binh sĩ NV đều có. Dĩ nhiên điều tôi kể
chưa đủ để bào chữa được cho lời tố giác tội hèn nhát.
Để minh chứng hơn,
hãy nhìn vào Nam Việt Nam ở thời điểm cuối cùng vào năm 1975 khi đất nước này
đang trong tình trạng tuyệt vọng khi biết rõ Mỹ không ra tay cứu giúp nữa (cả
nhiên liệu lẫn đạn dược). Thế mà một đơn vị NV tầm cỡ một sư đoàn đã cầm chân
được bốn sư đoàn BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Chỉ
riêng một trận này thôi sự anh dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào
có thể tìm thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Quân NV sau đó đành phải lui binh vì
không quân của họ không còn bom để yểm trợ chiến đấu.
Có lần tôi xem được
một phim tài liệu truyền hình do một phóng viên người Úc quay tường thuật về cuộc
chiến. Khác với các phóng viên Mỹ, anh ta dành hết thời gian bên cạnh các binh
sĩ NV. Anh ta ghi rõ tinh thần chiến đấu của Nam quân bằng những thước phim của
mình. Anh còn kể rằng anh từng ghé qua một làng do địch kiểm soát và nghe nói lại
rằng lính CS còn sợ lính NV hơn cả lính Mỹ. Lý do chính là lính Mỹ bao giờ cũng
ồn ào, nên khi nào lính Mỹ đến là họ biết ngay. Chỉ vậy thôi thì có gì họ phải
kinh sợ nếu quân NV không là những chiến binh nguy hiểm.
Tuy vậy, chứng cớ
quan trọng nhất chứng tỏ ý chí chiến đấu của quân nhân Miền Nam đến từ hai sự
kiện hiển nhiên, những sự kiện vốn thường hay bị lãng quên hoặc che giấu để che
đậy sự thất bại của người Mỹ ở Việt Nam.
Sự kiện thứ nhất: Chiến tranh VN đã khởi sự đâu đó bảy năm trước khi lực lượng chính của
Hoa Kỳ đổ đến và sau đó lại tiếp tục thêm chừng năm năm sau khi quân Mỹ rút ra.
Trong khoảng đó phải có ai đó đang chiến đấu mà kẻ đó là người Miền Nam chứ còn
ai khác hơn.
Sự kiện thứ hai: Quân đội NV thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường. Theo
tỉ lệ dân số thì tương đương hai triệu lính Mỹ chết (một con số gấp đôi tổn thất
của Mỹ trong tất cả các chiến tranh gộp lại). Cho rằng người ta không chịu chiến
đấu thì sao họ lại chết nhiều như vậy.
Vậy thì do đâu mà
NV phải chịu mang tai tiếng xấu?
Dĩ nhiên có lúc họ
tỏ ra bất tài và hoảng loạn. Lính Mỹ cũng vậy thôi. Tôi biết một câu chuyện qua
một đơn vị trưởng pháo binh HK rằng khi hay tin đại đội bộ binh bảo vệ mình bị
địch đánh tan tành, các pháo thủ đâm hốt hoảng bắn loạn xạ khiến đám quân yểm
trợ này hoảng loạn chạy có cờ giữa hai lằn đạn.
Một biến cố đơn thuần
đó không thể đem ra mà gán cho cả quân lực HK là hèn nhát; qua sự kiện thỉnh
thoảng có sự tan hàng của người đồng minh của nước Mỹ cũng không có nghĩa là tất
cả chiến binh Miền Nam là hèn. Thế mà có kẻ lại suy nghĩ như vậy, qua cách nói
bởi một số cựu chiến binh, bởi những chính trị gia muốn bào chữa cho một chính
quyền Mỹ đã để cho Nam VN bị suy vong.
Sự thật được minh bạch
hơn qua mẩu đối thoại sau đây phát xuất từ hai thế kỷ trước, khi một phụ nữ Anh
hỏi Công Tước Wellington (người đánh bại Napoleon trong trận Waterloo,
chú thích của dịch giả), rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến
trường không. Viên công tước đáp, “Ngoài chiến trường người linh nào cũng có bỏ
chạy cả, thưa bà.”
Một nghiên cứu qua
loa trong quân sử cũng xác minh được điều này. Những trận đánh thời Nội Chiến
Hoa Kỳ (Civil War) cho thấy sự can trường lẫn sợ hãi liên tục khi lên khi xuống,
cả những đơn vị phe Confederate lẫn Union thoạt đầu xông pha rất hăng hái, sau
đó co cụm lại rồi bỏ chạy trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp tục
chiến đấu. Chưa có đạo quân nào tự cho mình có nhiều hành động hy sinh anh hùng
bằng hai đạo quân này, tuy nhiên họ cũng có lúc chạy tán loạn nơi một chiến trường
quá đẫm máu.
Văn sĩ S. L. A.
Marshall mô tả sự hoảng hốt bỏ chạy của một đơn vị bộ binh HK thời Đệ Nhị Thế
Chiến khi quân cảm tử Nhật vừa tấn công vừa hò hét. Đơn vị thứ hai nằm lại quyết
chiến và nhanh chóng tiêu diệt hết đám quân Nhật (chừng 10 tên) và vỡ lẽ ra là
đa số bọn chúng không có võ khí.
Nếu sự việc tương tự
xảy đến với một đơn vị Nam Việt, những tên tự xưng là học giả uyên thâm lập tức
ra rả lập đi lập lại rằng ấy là chứng cớ rành rành về hành động khiếp nhược của
quân đội Miền Nam.
Tại sao vậy? Chúng
ta ắt đã ngầm có câu trả lời rồi. Mọi sự còn tùy là cái quân đội đó thuộc chủng
tộc gì, nói thứ ngôn ngữ nào. Sự thật đốn mạt là cái mà quân đội Nam Việt phải chịu
mang tai tiếng xấu bắt nguồn từ lòng kỳ thị chủng tộc lẫn tinh thần sô-vanh nước
lớn (chauvinism) của người Mỹ.
Tôi xin tự minh chứng
về khuynh hướng bóp méo sự thật vốn tràn lan rộng khắp. Lúc vừa mới đặt chân đến
Nam VN vào tháng Sáu năm 1969, lập tức tôi được chứng kiến những trường hợp bày
tỏ thái độ ngu dốt và khinh miệt của một số người Mỹ dành cho người dân cũng
như quân đội quốc gia này.
Các binh sĩ Mỹ trắng
cũng như đen, luôn cả những người trong các dịch vụ thuộc dân sự như truyền
thông báo chí thẩy đều như nhau. Thái độ căm ghét này dành cho xứ sở cùng dân tộc
VN kinh khiếp thay lại có một sức mạnh truyền nhiễm kinh hồn.
Một viên đại úy Mỹ
tôi được biết có trình độ tốt nghiệp đại học về ngành điện ảnh từ một trường có
tiếng tăm (coi như họ được đào tạo để có cái nhìn chuyên môn hơn người thường).
Có lần anh ta sau công tác tạm thời ở Thái Lan trở lại VN đã hết lời ca ngợi
dân Thái.
“Dân Thái họ cho
con đi học đàng hoàng,” anh ta nói, “khác với tụi nhỏ con của người Việt ở
đây”. Khi tôi chỉ cho anh ta thấy không đâu xa mà ngay kế bên căn cứ còn có một
trường học thì anh ta ngạc nhiên nhưng không hề tỏ ra ân hận về nhận xét của
mình. Hằng trăm trẻ nhỏ trong đồng phục quần xanh áo trắng cắp sách đến trường
mỗi ngày mà bất cứ ai có mắt đều nhìn thấy. Vậy mà tên làm phim này lại không.
Chua chát thay, dân
VN vốn quí trọng sự học còn hơn dân Mỹ, họ đã nâng trình độ người đi học từ 20
lên đến 80 phần trăm dù chiến tranh đang dày xéo chung quanh (dù ngay cả các
giáo viên vẫn thường xuyên bị sát hại bởi đối phương). Vậy mà vẫn còn bị tên
làm phim này gán cho cái tội là một xứ sở không trường không lớp.
Vì phải viễn chinh
nơi một xứ sở xa lạ, xa gia đình, người Mỹ này đã tự hun đúc cho mình một lòng
thù ghét đất nước VN, hắn muốn tin rằng người Việt là đáng khinh. Do vậy, điều
quan trọng đối với hắn là phải tin tưởng rằng người Việt không có trường học
dành cho con cái họ; và chính cảm nghĩ đó làm mù đi thị giác của hắn.
Hãy suy tưởng đến cảm
nghĩ của khối quân Mỹ ít học thức hơn khi phải trực diện với nền văn hóa xa lạ
trong một môi trường đầy căng thẳng! Có lẽ ta không nên đổ lỗi cho các binh sĩ ấy
về thái độ kém cõi của mình. Trời đất còn biết là giới chỉ huy HK chỉ nỗ lực
qua loa để giáo dục cho binh sĩ mình về đất nước VN và tính chất của cuộc chiến.
Tuy vậy, đó không
phải là lý do để bào chữa cho các cựu chiến binh giả vờ cho là mình hiểu về những
gì mình thấy ở VN. Ta phải tri ân các cựu chiến binh chiến tranh VN về đức tính
quả cảm, sự hy sinh và lòng trung thành đối với tổ quốc. Nhưng tính quả cảm và
sự hy sinh không đi đôi với sự hiểu biết. Chiến đấu ở VN không làm cho người
lính thành những chuyên gia về đất nước hay cuộc chiến đó, cũng như có con
không phải làm cho người mẹ trở thành một chuyên gia về khoa thai nhi
(embryology).
Những gì người lính
Mỹ làm ở VN không dạy cho họ hiểu biết hơn về nền văn hóa, xã hội, chính trị,
vân vân và vân vân của Nam Việt. Một ít người Mỹ có học lỏm bõm được vài tiếng
Việt; ngay cả có một vài đọc được sách báo VN; và chẳng bao nhiêu người đọc
sách vở viết về xứ sở Việt Nam bằng Anh ngữ.
Ngoại trừ các cố vấn,
ít người Mỹ nào làm việc gần gũi với những người Việt, có chăng họ có chung đụng
với những người làm thư ký, giặt giũ, và nữ hầu bàn do quân đội HK mướn.
Điều quan trọng hơn
cả là ít quân nhân HK nào từng chứng kiến sự chiến đấu của binh sĩ NV. Ít ai có
bao giờ xét đến thái độ khác biệt hiện hữu trong tâm tư những chiến binh nơi
chiến trường ấy, quân Mỹ sang chiến đấu một năm rồi về, họ yên tâm là gia đình
họ đều đang bình yên ở nơi chính quốc; trong khi người lính Miền Nam thì khác,
hằng ngày họ phải lo lắng cho sự an nguy của gia đình mình, họ thừa hiểu rằng
chỉ có cái chết hay chỉ có bị thương ở mức độ tàn phế họ mới ra khỏi được đời sống
quân ngũ. Đương nhiên người Việt ắt phải dùng một thước đo riêng để quyết định
cái gì là quan trọng hơn để chiến đấu.
Giới nhà báo không
khá gì hơn. Thử xét xem về một cuộc tường thuật truyền hình thiên vị mà tôi đã
được xem, trong đó người phóng viên tố giác không quân NV mặc dù đã Việt Nam
Hóa chiến tranh, đã không chịu bay, để cho KQ HK phải lãnh những sứ mạng nguy
hiểm chống lại BV.
Nói cho đúng thì
chính HK không chịu để cho NV bay ra Miền Bắc (ngoại trừ một vài phi vụ trong
thời gian mở màn của các cuộc dội bom). Giới lãnh đạo HK muốn kiểm soát việc
ném bom vì có thế HK mới có thế dùng nó như một công cụ để mặc cả trong bàn
thương thảo.
Bởi không muốn NV
xen vào việc ném bom, HK cố ý chuyển giao cho NV những trang bị không thích hợp
cho các phi vụ đánh phá Miền Bắc. Nam Việt không có phi cơ chiến đấu, vũ khí,
máy bay tiếp tế xăng trên không, hoặc cả những thiết bị điện tử cần thiết cho
những phi vụ ấy. Chính người Mỹ đã quyết định làm như vậy.
Người phóng viên
nêu thắc mắc kể trên hoặc đã quá khờ khạo hoặc đã chọn sự tảng lờ để thực thi
hành động báng bổ người đồng minh của HK. Căn cứ vào những lời lẽ vu khống cùng
giọng điệu om sòm, tôi đi tới kết luận là sự thiếu kiến thức của anh ta hoàn
toàn do cố ý.
Một dẫn dụ khác về
tính thiên vị của giới truyền thông là vào thời điểm Khe Sanh bị bao vây. Nếu
ta hỏi một ngàn người Mỹ có đơn vị tham chiến ở Khe Sanh, hầu hết ai nghe nhắc
đến trận ấy hẳn đều biết TQLC Mỹ chiến đấu ở đó. Nhưng nếu có hơn một người
trong số một ngàn người đó biết có một tiểu đoàn Biệt Động Quân NV cũng đã san
xẻ sự cam khổ ấy thì quả là điều đáng ngạc nhiên. Trong khi ấy còn có những đơn
vị NV khác cũng dự phần vào những cuộc hành quân yểm trợ bên ngoài căn cứ đang
bị vây hãm này. Báo chí Mỹ coi đồng minh của HK như không đáng để tường thuật đến
trừ khi họ phạm điều gì ô nhục, vì thế những chiến sĩ chiến đấu can trường kia
trở nên những người hùng vô hình tại Khe Sanh.
Sự thiên vị này,
lính Mỹ lẫn giới truyền thông HK đã đồng ca rõ rệt khi tường thuật về cuộc hành
quân bất ngờ vào lãnh thổ Lào năm 1972.
Thử xem lại một tài
liệu truyền hình được đưa ra một thập niên trước đây. Tài liệu này bao gồm cuộc
phỏng vấn một số binh sĩ Mỹ trong khi chiến trận tại Lào đang diễn ra. Những
quân nhân HK này, đứng bình yên bên lãnh thổ NV, có những lời nhận xét cay độc,
kỳ thị dành cho các binh sĩ NV đang chiến đấu ở bên kia biên giới. Người phóng
viên truyền hình này bày tỏ rằng lính Mỹ hiểu rõ tình hình hơn các tướng lãnh của
họ.
Cuộc tấn công lên đất
Lào dĩ nhiên là nguồn gốc của bức hình nổi tiếng cho thấy hình ảnh một người
lính NV đang đeo trên càng một phi cơ trực thăng để tìm cách vượt thoát. Hình ảnh
này được liên tục tung ra trước công chúng Mỹ như là “chứng cớ” cho thấy người
Miền Nam là đáng khinh tởm.
Quả thực đây là một
thủ thuật xưa như trái đất để xuyên tạc sự thật bằng sức mạnh của hình ảnh. Những
gì xảy ra bấy giờ đúng ra là như vầy: Quân NV gặp phải lực lượng đông đảo của đối
phương trong khi quân Mỹ không yểm trợ được như đã hứa vì hỏa lực phòng không của
địch quá mạnh. Có nhiều báo cáo cho biết phi hành đoàn trực thăng phải đạp những
két đạn đại bác xuống đầu các đơn vị NV từ độ cao 5000 bộ trở lên chỉ với hy vọng
quân NV sẽ nhận được. Các phi cơ này quả tình là không dám xuống thấp hơn.
Trong phạm vi vấn đề
này, thử xem nhận xét của một sĩ quan HK, Đại Tá Robert Molinelli, người đã mục
kích tận mắt, được đăng tải trong Armed Forces Journal (Tập San Quân Đội) số
ngày 19 tháng Tư, 1971 như sau: “Một tiểu đoàn NV gồm 420 người bị bao vây bởi
một trung đoàn đối phương đông đến từ 2500 đến 3300 quân trong suốt ba ngày
ròng. Phía HK không thể nào tăng viện cho đơn vị này. Họ phải chiến đấu đến gần
cạn kiệt hết đạn dược mới bắt đầu phá vòng vây với vũ khí và đạn dược thu được
của địch quân. Đơn vị này còn mang theo những đồng đội bị thương cũng như đã chết.
Hình ảnh phi cơ trinh sát chụp được cho thấy rãi rác chung quanh đơn vị này là
xác của 637 quân địch.
Đơn vị này chỉ còn
253 người trong tình trạng khả thi chiến đấu khi họ chạy đến được một đơn vị NV
khác. Một số ít trong số 17 kẻ hoảng sợ đã bám càng trực thăng để thoát thân. Số
còn lại, tất cả đều không.
FOUGHT TILL THE END – A
Vietnamese machine gunner lies dead in his foxhole with hundreds of shells
surrounding him. The knee-deep spent shells are silent proof that he fought to
his death when Viet Cong overran his position at the Michelin Rubber
Plantation, 45 miles northwest of Saigon. The battleground was retaken today and over a hundred corpses
recovered.
CHIẾN ĐẤU ĐẾN CÙNG – Hình ảnh một xạ thủ đại liên Nam Việt chết trong hố
cá nhân với hằng trăm vỏ đạn vung vãi chung quanh. Số vỏ đạn nhiều, ngập đến đầu
gối người lính là minh chứng thầm lặng cho thấy anh ta đã chiến đấu cho đến lúc
bị hạ gục, khi vị trí đóng quân của đơn vị anh ở đồn điền cao su Michelin, cách
Sài Gòn 45 dặm về hướng Tây Bắc, bị Cộng quân tràn ngập. Tin điện do hãng thông
tấn AP đánh đi vào tháng 11.1965, loan báo quân chính phủ đã tái chiếm chiến
trường và thu dọn được một trăm xác chết. (Ảnh chụp này do Triệu Phong sưu tầm để minh họa thêm cho bài đọc)
Giờ đây, chắc có
người cho rằng đeo càng trực thăng để thoát cho nhanh, dù rằng dễ làm mồi cho hỏa
lực phòng không mà phi cơ lại bay cao và nhanh. Nhưng ngoài chuyện ấy ra, một
trường hợp cá biệt, việc lui binh trong khi đang giao chiến ác liệt (một chiến
thuật khó khăn nhất trong binh pháp) lại bị phóng đại thành một lời buộc tội
cho cả một quân đội, một quốc gia và tệ hơn nữa cả một dân tộc?
Câu trả lời rằng đó
là do chính lòng kỳ thị chủng tộc. Vì lẽ những người bám càng trực thăng là người
ngoại chủng. Thử hỏi kẻ đó là người Mỹ hay người Anh thì sao, cam đoan không
sai rằng ta sẽ cảm thông cho là người đó đang phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngã.
Minh chứng cho điều
này có thể thấy người Mỹ đã phản ứng như thế nào đối với lính Anh trước cuộc
triệt thoái của họ hồi thời gian đầu Thế Chiến Thứ Hai.
Nơi đây cũng có những
hình ảnh tủi hổ xảy đến cho lính Anh ở Dunkirk cũng như tại một số nơi khác. Ở
Dunkirk một hạ sĩ quan để tái lập trật tự phải chĩa súng đại liên vào đồng ngũ
của mình đang hốt hoảng trèo lên tàu. Trên một tàu khác, các binh sĩ dùng báng
súng dộng liên hồi vào người một sĩ quan để ngăn không cho ông này leo lên tàu
qua ngõ tháp súng. Tại đảo Crete, một lữ đoàn quân Tân Tây Lan (New Zealand) đã
tạo một vòng đai an toàn với lưỡi lê chĩa ra ngoài ngăn không cho các quân Anh
đang hoảng loạn tràn ngập lên được tàu mình.
Tuy thế, hình ảnh
nước Anh đơn độc chống lại Hitler năm 1940 lại là một hình ảnh hào hùng. Điều
này được minh chứng bởi sự kiện hoàn toàn hiển nhiên, ngay cả những biến cố đơn
lẽ như vừa nêu bật ở trên vẫn không làm lu mờ được cái hình ảnh toàn cảnh về đức
tính can trường và xã thân cứu nước của dân tộc này.
Quả thật quân Nam
Việt đã tỏ ra xuất sắc vào những ngày cuối cùng của Miền Nam qua sự bảo vệ Xuân
Lộc vô cùng anh dũng.
Tuy rằng có nhiều
lý do như vậy. Thảng hoặc có nhiều lý do để tin rằng, nếu có sự ủng hộ trung
thành của phía người Mỹ ắt Nam Quân sẽ chứng tỏ cho thế giới thấy thêm nhiều
Xuân Lộc khác nữa, và có lẽ họ cũng đã cứu được đất nước họ không bị mất.
Vấn đề được nêu ra
không phải là khả năng chiến đấu của quân Nam Việt như thế nào nhưng mà xét xem
người Mỹ sẽ hành xử ra sao nếu tình huống tương tự xảy đến với họ.
Sự thật là quân Mỹ
nếu bị Hoa Kỳ bỏ rơi như chính Nam Việt đã phải gánh chịu, có lẽ họ cũng sẽ
không khá chi hơn.
Hãy nhớ rằng: năm 1974 Hoa Kỳ đã cắt viện trợ cho
Nam Việt một cách thê thảm một vài tháng trước khi đối phương mở cuộc tấn công
sau cùng. Kết quả của sự cắt viện trợ là chỉ một ít nhiên liệu
và đạn dược gửi sang cho Miền Nam. Các phương tiện để vận chuyển cả trên không
lẫn trên bộ đều phải bị bỏ xó vì không có cơ phận thay thế. Quân lính NV đi
hành quân không có bình điện để liên lạc vô tuyến, y tá trên chiến trường không
có đủ y dược cụ căn bản. Trong những ngày tháng sau cùng của cuộc chiến, quân
Nam Việt phải chiến đấu thắt lưng buộc bụng, họ được phép bắn ba viên mỗi ngày,
khẩu phần này áp dụng cho cả đại bác lẫn súng trường.
Tình trạng tồi tệ đến
nỗi ngay chính Văn Tiến Dũng, người chiếm được Miền Nam cũng chấp nhận sự thật
là khả năng lưu động và hỏa lực của đối thủ của mình chỉ còn phân nửa trước
đây. Vậy thì ngoài sự thiếu thốn vật chất này ra, sự chiến đấu kiểu nhà nghèo
này cũng tác động lớn lên tinh thần chiến đấu của người lính NV.
Quân BV với trang bị
đầy ắp, với những chiến xa tối tân, với những xe cơ giới chở quân hiện đại, họ
đã đánh thẳng vào Miền Nam suy sụp này bằng cuộc tấn công phủ đầu.
Phải, quân NV đã
gát lại, đã vứt bỏ chiến cụ (không vứt cũng coi như vứt vì có cơ phận đâu mà
thay), cả đạn dược cũng bị bỏ lại (số lượng mà họ đã chắt chiu dành dụm được,
mang theo đến phút cuối cho tới lúc biết là đã quá muộn màng rồi không có cơ hội
để bắn hay mang theo được nữa, họ thừa biết họ sẽ không bao giờ có thêm để mà bắn).
Vậy thì lỗi nơi ai? Họ hay người Mỹ?
Phải, quân NV đã
triệt thoái khỏi các tỉnh phía bắc một cách vụng về và khá muộn màng, đưa đến
tình trạng hỗn loạn và suy sụp. Nhưng làm thế nào chính quyền Miền Nam có thể bỏ
mặc dân chúng sớm hơn được, trước khi áp lực địch quá lớn buộc họ phải làm thế?
Đã có lúc Nam VN hy
vọng B-52 trở lại để giúp họ chặn bớt làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Khi biết
rằng điều ấy sẽ không xảy đến, tinh thần chiến đấu của họ bị suy sụp cũng không
có gì đáng ngạc nhiên.
Không còn nhuệ khí
chiến đấu, nhiều binh sĩ quay ra đào ngũ – làm thế không phải vì họ hèn nhát
hay không có tinh thần hy sinh để bảo vệ đất nước mình, nhưng vì họ không muốn
xả thân cho một sự nghiệp biết chắc là đang trên đà phá sản trong khi gia đình
họ đang khẩn thiết cần đến mình.
Quân Mỹ liệu sẽ làm
gì khá hơn được chăng nếu cũng lâm vào tình huống như Nam VN hồi 1975? Liệu
quân Mỹ có chiến đấu ngon lành với quân xa, truyền tin đều hỏng, hệ thống quân
y què quặc, thiếu thốn nhiên liệu và đạn dược, và không yểm thì nhỏ giọt hoặc hầu
như không có. Với một tình trạng bết bát như thế mà phải đối đầu với một kẻ địch
có quyết tâm cao, hùng mạnh, trang bị tối tân, sung mãn. Tôi e là không thắng nổi.
Liệu NV có thắng được
trận 1975 nếu chính phủ Mỹ vẫn giữ vững sự cam kết, và tiếp tục chi viện cho NV
không kém với chi viện mà khối CS dành cho Miền Bắc?
Câu trả lời là
không biết được. Ít ra họ còn có một cơ hội để đọ sức, cái cơ may mà người Mỹ
phản trắc đã tước mất của họ. Hiển nhiên là họ có thể chiến đấu hữu hiệu hơn.
Cho dù họ có bại trận họ cũng ngã gục một cách hào hùng trong một trận đánh lưu
danh muôn thuở cho hậu duệ, để tiếp tục chiến đấu dưới hình thức du kích chiến
rập khuôn theo kiểu Afghanistan.
Cho dù NV có đại bại,
sự ủng hộ hết mình của Hoa Kỳ ít ra cũng khiến họ có thể nhún vai mà nói rằng
dù sao họ cũng đã giúp đỡ hết mình rồi. Đằng này người Mỹ chưa có hết mình giúp
đỡ. Những kẻ nào muốn trốn tránh sự thật ấy bằng cách quay ra báng bổ NV và
quân đội ấy là không phải lẽ.
Trước một tội ác
tày trời bỏ mặc cho nhân dân Miền Nam rơi vào tay CS, người Mỹ sau này quay ra
đi làm điều tốt kể ra đã quá muộn màng. Nhưng nếu biết nhìn lại và công nhận mình
đã sai lầm khi sỉ nhục lương tâm của người Miền Nam ấy thì chưa có muộn đâu.
Cũng chưa muộn màng gì nếu ta biết khởi đầu vinh danh đúng mức những thành tích
họ đã đạt được cùng những hành động hào hùng họ đã tạo nên để bảo vệ cho lý tưởng
tự do.