23/04/2019
(1) VIETNAMMIZATION ?
Việt Nam hóa chiến tranh hay là nghệ thuật rút lui
có trật tự
(Giao Chỉ, San Jose.15 tháng tư-2019)
Tháng tư, 44 năm sau đại học Mỹ Texas Tech ở Lubbock tổ chức hội luận về
chiến tranh Việt Nam.
Thời gian: 25 đến 27 April 2019
Địa điểm: Texas Tech University Lubbock.
Thành phần: Tổng cộng 60 người gồm các giáo sư của 20 trường đại học và
các thành viên quan tâm tham dự hội thảo về 22 đề tài qua chủ đề Việt Nam Hóa
chiến tranh.
Ghi
nhận: Người Việt Nam trong số tham dự bao gồm cả các giáo
sư từ đại học Hà Nội và Sài Gòn, các giáo sư đại học tại Hoa Kỳ, các cựu quân
nhân và các viên chức chính phủ VNCH. Các ông Hoàng Đức Nhã, Nguyễn Đức Cường,
Phạm Kim Ngọc, Trần Quang Minh là các tổng trưởng trong nội các đệ nhị cộng
hòa. Ông bà Dương Phục, Vũ thanh Thủy là các phóng viên chiến trường. Bà Nancy
Bùi Triều Giang giới thiệu phim Vietnamerica.
Với sự hiện diện của các thành phần quân dân chính
miền Nam trong hội luận, chúng ta ước mong quý vị sẽ có dịp nói lên những sự thực
và chỉ những sự thực quan trọng bị bỏ quên gần nửa thế kỷ. Hãy lên tiếng cho 16
ngàn tử sĩ trong nghĩa trang Biên Hòa và 250 ngàn đồng hương đã nằm dưới biển
Đông. Đừng sợ lạc đề. Hãy lên tiếng cho hàng trăm chiến sĩ quân dân chánh VNCH
theo gương Hoàng Diệu, Nguyễn tri Phương, Phan thanh Giản đã tự sát vào cuối
tháng tư oan nghiệt 44 năm xưa.
(2) Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh
Sau trận tấn công Mậu Thân 1968 thất bại, Hà Nội hy
sinh toàn bộ quân số của phe "Giải phóng miền Nam". Nhưng kết quả
danh tiếng kẻ xâm lược lại vang dội tại Hoa Kỳ. Quần chúng Mỹ, đặc biệt là phe
phản chiến thán phục sự hy sinh của cộng sản. Tiếp theo Hà Nội gồng mình chịu đựng
các trận mưa bom mà không đàm phán nghiêm chỉnh. Sài Gòn cũng không đưa phái
đoàn tham dự hòa đàm Paris. Nixon trực tiếp yêu cầu ông Thiệu khoan tham dự để
lấy điểm tranh cử. Ngày bỏ phiếu, ông Thiệu và bộ tham mưu ngồi chờ kết quả
trong dinh Độc lập đã vui mừng được tin Nixon trở thành tổng thống thứ 37 của
nước Mỹ. Ngay sau khi nhận chức, tân tổng thống xác định thi hành lời hứa rút
quân và đưa ra chiêu bài Vietnammization. Kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh thực
sự được thi hành ngay từ các năm 1969-1970. Mặt khác VNCH đồng ý gửi phái đoàn
tham dự hòa đàm Paris. Mỹ giúp VN gia tăng quân số lên 1 triệu và đơn phương
rút quân. Đồng thời các đơn vị về nước đã trao lại một phần trang bị và các căn
cứ cho QLVNCH. Nhưng cũng giao lại gánh nặng chiến trường cho miền Nam. Để bảo
đảm cho việc rút quân, Nixon đi một bước quan trọng. Trực tiếp qua Tàu nói chuyện
thẳng với Mao Trạch Động năm 1971 và có được bản thông cáo Thượng Hải, Trung Cộng
hứa hẹn sẽ giữ chân Hà Nội. Tiếp theo, Nixon ép ông Thiệu gửi phái đoàn đi
Paris và phải ký vào hiệp định với các điều khoản tệ hại . Đổi lại ông nhận được
lời cam kết riêng tư rất mơ hồ cho số phận miền Nam. Cho đến khi những người
lính Mỹ cuối cùng về nước Việt Nam Hóa chiến tranh không hề có sự cam kết chính
thức giữa 2 quốc gia. Không có bất cứ một kế hoạch nào mở ra cho VNCH một con
đường tự lực chiến đấu. Tất cả miền Nam vẫn tuỳ thuộc vào Hoa Kỳ. Trong khi đó
phía cộng sản Nga và Tàu hết lòng viện trợ tối đa cho Bắc Việt nhằm dứt điểm
Sài Gòn. Điều đáng ghi nhận là năm 69-70 là thời kỳ miền Nam thành công nhất
trong các chiến dịch Bình Định. Việt Nam Hóa chiến tranh khởi sự tốt đẹp nhưng
mau chóng trở thành thất bại ngay sau khi hiệp định Paris được ký kết. Khi tổng
thống Nixon phải từ chức cuối năm 1974, Việt Nam Hóa chiến tranh tại miền Nam
rơi vào quên lãng. Sau tháng tư 1975 những phi cơ chở tỵ nạn từ đảo Guam đến LA
bay ngang đầu Nixon tại vườn trại miền Nam CA, ông đã nghĩ chuyện gì.
3) Chiến tranh Việt Nam. Kể chuyện từ đầu.
Bài tham luận của người không tham dự hội luận.
Giao Chỉ San Jose. (Đại tá Vũ Văn Lộc giám đốc ủy
ban Pathfinder, cơ quan phối hợp TTM và Pentagon cải tổ hệ thống yểm trợ
QLVNCH)
Tham Luận
1) Trong sách trung học của Hoa Kỳ, chiến tranh Việt
Nam chỉ có vài hàng ngắn ghi lại cuộc đương đầu giữa Mỹ và Việt Cộng. Hoàn toàn
không đề cập đến chuyện quân dân VNCH xây dựng và chiến đấu bảo vệ miền Nam
trong 21 năm.(1954-1975)
2)Lần đầu tiên Hoa Kỳ tham chiến và phải rút quân tại
Việt Nam. Năm 2018 hai nhà báo Mỹ Kenburns/Lynn Novick công bố cuốn phim 10 tập
thực hiện trong 10 năm với kinh phí 30 triệu Mỹ kim để giải thích tại sao Mỹ
rút.
3)Nhận định rằng bộ phim Việt Nam War thêm một lần
cuối đề cao kẻ chiến thắng và giải thích lý do Mỹ rút quân vì hòa bình. Việt
Nam Cộng Hòa đã bị bỏ rơi trong chiến bại năm 1975 và ngày nay lại bị thua thêm
một lần trên từng thước phim.
4) Cho đến nay, chưa có cuốn phim nào của cộng đồng
tỵ nạn Việt Nam lên tiếng cho Việt Nam Cộng Hòa. IRCC và Dân Sinh Media San
Jose sẽ thực hiện một DVD đáp ứng nhu cầu kể trên vào ngày 20 tháng 7-2019 ghi
dấu 65 năm cuộc di cư lịch sử 1 triệu người từ Bắc vào Nam.
5)Hội thảo Lubbock muốn nói gì thì nói, mục đích của
kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh (Vietnamization) chỉ là chiêu bài đẹp đẽ về
cuộc bỏ chạy của Hoa Kỳ.
6)Nhân danh người Mỹ gốc Việt, một mặt cất tiếng Cảm
ơn nước Mỹ trong chính sách mở cửa đón di dân ty nạn Việt Nam. Mặt khác phải
xác định vai trò trách nhiệm thua trận tại Việt Nam. Ba mươi phần trăm lỗi từ
chính phủ Mỹ và 70% do lãnh đạo Việt Nam.
7) Miền Nam bại trận 1975 không phải vì quân viện mà
lý do chính là tinh thần. Sau nhiều năm cam kết, bỗng chốc sự quay lưng rõ ràng
của chính phủ và quốc hội Hoa Kỳ lập tức tạo ra sự hoảng loạn kinh hoàng từ tổng
thống đến các tướng lãnh và làm toàn thể một đạo quân rã ngũ, không chiến đấu.
8)Hoa Kỳ không hề chuẩn bị giúp cho VNCH tự chiến đấu. Việt Nam Hóa chiến tranh
chỉ là một một kế hoạch giai đoạn của chính phủ Mỹ. Chính phủ và nhân dân Việt
Nam dù là kẻ bị lừa cũng phải chịu trách nhiệm 70% và thiệt hại 100%. 9) Nhân
có cơ hội nói rõ đầu dưới về chiến tranh Việt Nam dưới cái nhìn của một quân
nhân VNCH, tôi trình bầy như sau:
Chiến tranh Việt Nam, kể chuyện từ đầu
1)
Dân tộc và đất nước Việt Nam:
4 ngàn năm trước đã có nhiều sắc dân Việt sống ở miền
Nam sông Dương tử tại miền Nam nước Trung Họa hiện nay. Gọi chung là Bách Việt.
Sau đó bộ tộc Lạc Việt tách rời Bách Việt và đi xuống lập quốc ở phương Nam, tại
lưu vực sông Hồng hiện nay. Mặc dù độc lập ở miền Nam nhưng cũng đã từng bị người
Trung Hoa đô hộ cả nghìn năm. Đã có nhiều cuộc nổi dậy và sau cùng người Việt
dành lại độc lập và mở rộng đất nước về phương Nam. Dân Việt tiến dần về miền
Trung rồi vào đến miền cực Nam trong lưu vực sông Cửu Long. Nước Việt Nam ngày
nay có gần 100 triệu dân và là quốc gia ven biển Thái Bình dương có bờ biển dài
3500 km.
2)
Lịch sử chiến tranh:
Sau 1 nghìn năm bị Tàu đô hộ, người Việt đã chống lại
nhiều cuộc xâm lăng tiếp theo của Trung Hoa. Lịch sử ghi nhận quân dân nhà Trần
đã hoàn toàn tự chủ anh dũng chống lại quân Mông Cổ nhờ vận dụng quyết tâm của
toàn dân trong hội nghị Diên Hồng. (Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh? Hy
sinh.) Ngoài ra Việt Nam cũng có cuộc nội chiến Nam Bắc kéo dài 150 năm chia
đôi đất nước tại con sông Gianh thuộc tỉnh Quảng Bình miền Trung. Năm 1867 Việt
Nam bị người Pháp chiếm đóng và đô hộ 80 năm cho đến khi đệ nhị thế chiến chấm
dứt. Trong thế chiến, Nhật đánh Pháp chiếm đóng Việt Nam. Khi Nhật đầu hàng Đồng
Minh, người Pháp tìm đường trở lại. Cả 2 phe Quốc và Cộng Việt Nam đều muốn đứng
lên dành độc lập. Phe Cộng sản Việt Nam đã thành công lãnh đạo toàn dân đánh
Pháp. Phe quốc gia cộng tác với người Pháp qua sự yểm trợ của Mỹ đánh nhau với
phe cộng sản được Nga và Tàu yểm trợ. Năm 1954 Pháp thua trận Điện Biên Phủ phải
ký hiệp định Genève chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17 trên sông Bến Hải thuộc tỉnh
Quảng Trị. Tiếp theo Pháp rút khỏi miền Nam và Hoa Kỳ trực tiếp thay thế xây dựng
VNCH trở thành tiền đồn của thế giới tự do tại Đông Nam Á.
3)
Bang giao quốc tế.
Chiến tranh Việt Nam liên quan rất nhiều đến thế giới.
Thế chiến thứ 2 từ 1939 đến 1945 Nga sô dưới chế độ cộng sản là đồng minh của
Hoa Kỳ. Chính Mỹ giúp nước Nga cộng sản trong chiến tranh và cả thời hậu chiến.
Khi thế chiến chấm dứt, Việt Nam đã chia hai phe Quốc Cộng. Cộng sản Việt Nam
đã mau chóng cướp chính quyền và dành công đầu của toàn dân trong công cuộc
kháng chiến chống Pháp. Năm 1954 hiệp định Genève chia đôi 2 miền Nam Bắc. Cộng
sản tiến vào Hà Nội như đoàn quân chiến thắng. Miền Nam ngậm ngùi đón nhận một
triệu dân di cư để cùng xây dựng 2 nền cộng hòa. Trong khi miền Nam xây dựng đất
nước phồn thịnh nhân dân no ấm thì miền Bắc đưa dân chúng vào cuộc sống lầm
than, đấu tố, bao cấp, cải cách ruộng đất. Chính sách độc tài tàn khốc cùng với
đường lối bưng bít một chiều của cộng sản đã làm cho toàn dân khiếp đảm đồng
lòng hy sinh cho cuộc chiến. Cùng với sự yểm trợ tối đa của 2 cường quốc cộng sản
Nga Tầu, Hà Nội thành công trong việc vận động dân chúng vào mục tiêu xâm chiếm
Miền Nam. Thay vì tấn công trực diện qua Bến Hải, cộng sản miền Bắc thành lập Mặt
trận giải phóng miền Nam và đưa quân qua biên giới Miên Lào. Phía Đồng Minh,
Hoa Kỳ với tổng thống Eisenhower ủng hộ tổng thống Ngô Đình Diệm và nền đệ nhất
Cộng Hòa. Tổng thống Kennedy nhận chức tiếp tục đoan chắc giúp miền Nam tự chiến
đấu. Nhưng tình hình thay đổi toàn diện khi nền đệ nhất cộng hòa xụp đổ. Chính
phủ Mỹ trách nhiệm trong việc đảo chính và hạ sát anh em tổng thống Ngô Đình Diệm.
Tiếp theo Hoa Kỳ đem quân vào tham chiến nhưng chiến tranh vẫn tiếp tục kéo dài.
Sau trận Mậu thân 1968, Mỹ chuẩn bị Việt Nam Hóa chiến tranh và quân lực VNCH
tiếp tục chiến đấu anh dũng từ Bình Long, Kontum ra đến miền hỏa tuyến Quảng Trị.
Sau trận mùa hè đỏ lửa 1972 dư luận phản chiến tạo ảnh hưởng lớn lao tại Mỹ. Nỗ
lực sau cùng của Hoa Kỳ là tiếp xúc trực tiếp với Trung Cộng đẩy mạnh nghị hội
Paris để rút quân.
4)
Hiệp ước trong thế bại.
Trong chiến tranh Cao Ly, hội nghị Bàn môn Điếm đặt
ra biên giới quốc cộng rõ ràng. Thỏa ước đình chiến được công nhận và điều quan
trọng hơn hết là quân Mỹ tiếp tục đồn trú tại Nam Hàn để bảo vệ miền Nam. Trái
lại bản thảo hiệp định Paris về VN là bản án tử hình cho đệ nhị cộng hòa vì cho
phép 200 ngàn quân cộng sản ở lại miền Nam trên phần đất hiện hữu và Hoa Kỳ phải
triệt thoái toàn diện. Hiệp ước cũng không được quốc hội Mỹ chính thức chấp nhận.
Trước bản án đau thương của miền Nam, tổng thống Thiệu đơn phương chống đỡ
nhưng Nixon phản ứng quyết liệt. Henry Kissinger được Nixon trao toàn quyền
thương thuyết mật đàm với Hà Nội, nhân danh hòa bình bằng mọi giá tìm đường rút
lui trong danh dự. Kiss nổi danh tại Hoa Kỳ và là thần tượng của phe phản chiến
nhưng đồng thời với những thủ đoạn lừa bịp đã trở thành tay phản bội đồng minh
Nam VN và cả 58 ngàn tử sĩ Hoa Kỳ đã hy sinh cho cuộc chiến. Tổng thống Thiệu
dù nắm vững quốc hội, chính phủ và quân đội nhưng không có lựa chọn. Đành chấp
nhận ký hiệp định Paris với sự cam kết đơn phương của Nixon. Tiếc thay ông
không học gương tiền nhân để xây dựng hội nghị Diên Hồng vào năm 1973. Dù trách
nhiệm làm mất Việt Nam 70% về phía VNCH những hội luận 44 năm sau tại Lubbock
cũng là cơ hội cuối cùng để người miền Nam đặt vấn đề với công luận thế giới.
Nixon đã qua đời và ông đã phải trả nợ cuộc đời chính trị bằng số mệnh của
riêng ông, nhưng Kiss vẫn còn sống nên cần được nghe một lần cuối bản án của
người lưu vong miền Nam dành cho ông.
5)
Ủy ban Pathfinder
Vào những năm cuối của chiến tranh Việt Nam có 2
chuyện cần ghi lại. Quân đội VNCH đã nghĩ đến con đường tự chiến đấu khi Hoa Kỳ
bỏ rơi. Sáng kiến lập quỹ tiết kiệm quân đội hàng tháng trích lương lính một số
tiền nhỏ để xây dựng con đường tự túc tự cường.Thành lập ngân hàng quân đội. Tổ
chức nhà thầu quân đội đứng ra nhận thầu cung cấp tiếp liệu quân nhu như bao
cát, kẽm gai, lương khô. Mục đích có ngân khoản xây dựng công binh xưởng làm
súng đạn hoặc mua vũ khí. Kết quả phía Hoa Kỳ và chính các tay tư bản Trung Hoa
âm mưu đánh phá làm tổng thống và thủ tướng bỏ cuộc. Chính những vị này quay
lưng lại để nội bộ Tổng Tham Mưu và bộ quốc phòng gây chiến loại bỏ các sĩ quan
liên quan đến kế hoạch trở thành các con dê tế thần. Mỹ xác định với các bạn Việt
Nam không cần lo xa con đường tự túc tự cường. Hoa Kỳ sẽ quân viện cho Việt Nam
cho đến khi đạt chiến thắng sau cùng. Lời cam kết không bao giờ thục hiện. Đó
là chuyện thứ nhất. Chuyện quan trọng thứ hai là ủy ban PathFinder thành lập tại
bộ Tổng Tham Mưu phối hợp với Ngũ Giác Đài Hoa Kỳ.Thi hành công tác cải tổ hệ
thống tiếp vận theo lý tưởng Việt Nam hóa chiến tranh. Thực tế đây chỉ là
chương trình đồng loại hóa quân dụng và đồng loại hóa tổ chức theo chính sách mới
của hệ thống quốc phòng Hoa Kỳ. Đồng loại hóa tổ chức là các nhà kho của mọi
quân binh chủng đều xếp chung một chỗ. Tất cả các máy móc đều sửa chữa chung một
công xưởng. Chính chúng tôi với cấp bậc đại tá được chỉ định làm chủ tịch ủy
ban PathFinder. Một đại tá cao niên của Ngũ Giác đài, ông H.W. Sheriff cùng 20
chuyên viên dân chính cao cấp từ Hoa kỳ sang Việt Nam phối hợp làm việc. Chúng
tôi đi khắp các chiến trường. Thăm tất cả các đơn vị từ đồn dân vệ đến tư lệnh
quân đoàn. Kết quả cải tổ toàn diện hệ thống tiếp vận quân lực Việt Nam Cộng
hòa. Thành lập các tổng kho. Dự trù các chương trình yểm trợ chiến trường cho từng
vùng chiến thuật. Tuy nhiên thực tế không hề có một cải tiến cụ thể cho việc Việt
Nam Hóa chiến tranh. Vietnamization trước sau vẫn chỉ là bánh vẽ thay đổi màu
da các xác chết chiến binh. Mỹ không trang bị các vũ khí và phương tiện hiện đại
cho lục quân và không quân. Bàn giao các chiến hạm lỗi thời cho hải quân sau
khi tháo gỡ bớt các vũ khí tối tân.Tiếp liệu và cơ phận cạn dần nhưng không
thành lập các công binh xưởng sản xuất. Mỹ ước tính quân viện sẽ giảm bớt tùy
theo phần đất được bảo vệ. Tuyệt đối kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh không
dành một chữ cho con đường miền Nam Việt Nam chiến đấu một mình.
6)
Tổng tấn công 68 và mùa hè 72:
Trận tổng nổi dậy 1968 bất ngờ của cộng sản đã đo lường
khả năng chiến đấu của miền Nam. Hơn 30 thành phố bị tấn công bất ngờ đã được
giải tỏa trong vài tuần lễ. Trận chiến thắng cuối cùng của phe tự do hoàn tất tại
Huế vào tháng 2. Cộng sản thảm bại trên toàn quốc và hy sinh toàn bộ các chiến
binh thuộc Miền Nam. Tuyệt đối không thành phố nào có nhân dân nổi dậy. Nhưng
hình ảnh chiến tranh trên TV và đặc biệt trận đặc công lọt vào tòa đại sứ Mỹ đã
đưa lại chiến thắng lớn lao cho phe cộng sản. Quần chúng Mỹ hoàn toàn chống chiến
tranh và ủng hộ việc rút quân. Qua năm 72 tổng thống và quân dân miền Nam đã
dành được chiến thắng trên cả 3 mặt trận. Trận Bình Long ở miền Đông, trận cao
nguyên ở Kontum và trận Quảng Trị nhưng Mỹ đã rút quân và không bao giờ có ý định
trở lại.
7)
Những ngày đau thương:
Hiệp định Geneve chia đôi đất nước năm 1954 Mỹ và
phe quốc gia Việt Nam không ký, nhưng chấp nhận thì hành. Việc rút quân trong
đau thương nước mắt nhưng không hề hốt hoảng kinh hoàng. Đến hiệp định Paris
1973 Mỹ long trong ký kết và thúc ép VNCH cùng ký tên chấp nhận. Tổng cộng 12
quốc gia long trọng ký bản án tử hình. Tổng thống Thiệu chiến đấu trong cô đơn
và tuyệt vọng. Bây giờ Hoa Kỳ đã đem tù binh về nước. Lính Mỹ đã rút khỏi Việt
Nam. Nixon đã từ chức về vườn tại California. Sau cùng chuyện phải đến đã đến.
Cộng sản chiếm Phước Long. Rồi đến Ban mê Thuộc. Mỗi thành phố bị thất thủ,
trong Nam ông Thiệu ngó sang Hoa Thịnh Đốn và chờ đợi. Ngoài Bắc Lê Duẩn cũng
ngó qua Mỹ xem động tĩnh. Hoa Kỳ án binh bất động. Tiếp theo thảm kịch rút quân
đường bộ làm tan nát quân đoàn 2. Thảm kịch rút quân đường biển làm tan nát
quân đoàn 1. Không có Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ Vũng Tầu, Quảng Bình hay
Hải Phòng để cứu Việt Nam như chiến trường Cao Ly. Thậm chí cũng không có B52 dội
bom Hà Nội. Rõ ràng Mỹ bỏ Việt Nam. Mất chỗ dựa về tinh thần. Quân đội mất hết
ý chí chiến đấu. Thực sự vẫn còn đủ súng đạn và phương tiện nhưng cả đạo quân
tan hàng mà không cần lệnh đầu hàng. Cộng quân tiến vào mà tiếp thu không kịp.
Đại diện Hoa Kỳ đi cùng ủy ban quốc tế bay ra Hà Nội để điều đình thời hạn rút
quân với hạn chót là ngày 5 tháng 5- 1975. Mỹ thu xếp bàn giao miền Nam cho Hà
Nội từ Paris năm 73. Kiss tiên đoán là Sài Gòn sẽ thất thủ sau 18 tháng. 30
tháng tư 1975 là cơn hấp hối đã kéo dài hơn thời gian dự trù. Bản nhạc giáng
sinh tuyết trắng vang dội ở Sài Gòn vào cuối mùa hè 75 đã là ca khúc tuyệt vời
ghi thành tích Hoa kỳ bàn giao miền Nam cho cộng sản. Vietnammization là lời hứa
vĩ đại mà quê hương mới đã lừa quê hương cũ của chúng tôi. Bây giờ sau nửa thế
kỷ, mọi trách cứ đều muộn màng. Chỉ kể những sai lầm cho thế hệ mai sau chiêm
nghiệm. Mỹ vào Việt Nam là nhu cầu của Mỹ. Nhưng may mắn cũng là nhu cầu của
chúng ta. Mỹ rút ra cũng là nhu cầu của Mỹ. Nhưng bất hạnh là chúng ta không được
chuẩn bị chiến đấu một mình. Việt Nam hóa chiến tranh là chiến thuật người ta Bỏ
của chạy lấy người.
Vì không chuẩn bị để tự chiến đấu, tôi làm tôi mất
nước.
Ngày 30 tháng tư 75 có người góa phụ trẻ ôm đứa con
thơ ngồi khóc trên xe tải. Đó là chiếc xe tang chở di hài tử sĩ về quê chồng.
Ngày 30 tháng tư có cô sinh viên Sài Gòn trả lời rằng cháu đi nhận xác chồng ở
nghĩa trang Biên Hòa. Vậy còn phần bác, 30 tháng tư năm 75, lúc đó bác ở đâu?
No comments:
Post a Comment