27/04/2019
Những ai sống ở miền
Nam giai đoạn sau 30-4-1975 không thể nào quên những gì từng trải qua. Đó là những
chuỗi ngày không chỉ khốn khổ về vật chất. Biết bao người không thể cầm được nước
mắt khi chứng kiến cảnh hàng đống sách vở và băng đĩa nhạc bị đốt. Một cuộc thảm
sát văn hóa đã xảy ra. Không chỉ sản phẩm văn hóa, con người của văn hóa cũng bị
tận diệt. Nhà văn bị bỏ tù. Nhà báo bị “học tập cải tạo”. Nhà thơ đi đạp xích
lô… Bất luận bị “tra tấn” và “truy diệt” tàn bạo như vậy, văn hóa VNCH vẫn
không chết!
Trong Hồi
ký dang dở, cựu đại tá VNCH Dương Hiếu Nghĩa (từ trần ngày 14-4-2019) kể:
“Ngày mồng 3 tháng
5/1975. Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và
đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại một người bạn của
tôi là anh Hữu, quản thủ Thư viện Quốc Gia (ông Phan Văn Hữu – chú thích của
MK). Có đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là bài trừ “văn
hóa đồi trụy”: Sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là “Ủy ban bài trừ văn hóa đồi
trụy” ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít
khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con “cọp 30”)…
“Văn hóa đồi trụy”
được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế,
lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ,
phim, ảnh. v.v… đang được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày
30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt
Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga). Mục tiêu
mà các “ông cọp 30” nhắm vào trước tiên là Thư viện Quốc gia (National Library)
ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì
cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và
encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc
các ngành công pháp quốc tế, khoa học kỹ thuật, hàng không và cả khoa học không
gian v.v… mà anh Hữu đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện
của đất nước, trong phút chốc bị “cọp 30” xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng
tờ của bộ encyclopédia lên xem mà ứa nước mắt nhưng không dám hỏi thêm vì bị
ngay một “cọp 30” khoảng 16 tuổi tới đuổi: “Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt
bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu
độc dân tộc. Ta độc lập rồi thì ta cần gì ba cái thứ nầy nữa!”…
“Về văn nghệ thì tất
cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn
(lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại “nhạc
vàng của đế quốc Mỹ và tay sai”, cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có
tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v... cũng phải được duyệt
xếp loại lại. Nói tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho
là tàng tích của “Mỹ Ngụy” từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì
mà miền Bắc đang có và đang áp dụng... Có nghĩa là thay vì đẩy miền Bắc tiến
lên để theo kịp đà phát triển của miền Nam, họ làm mọi cách nhằm kéo lùi miền
Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền
Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau”…
Câu chuyện của ông
Dương Hiếu Nghĩa là một chi tiết rất nhỏ trên bức tranh kinh khủng mà miền Nam
chứng kiến giai đoạn sau 30-4-1975. Hàng ngàn câu chuyện khác đã dệt nên tấm thảm
kịch mà ngày nay vẫn gây nhức nhối mỗi khi được nhắc lại. Nhà văn Dương Thu
Hương từng thốt lên trong uất nghẹn: “Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc
là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi
đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người
ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh
đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt
giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải” (trích từ Ký 2,
Đinh Quang Anh Thái, trang 178).
Tuy nhiên, văn hóa
VNCH đã không chết. Di sản văn hóa của một nền văn minh đã không hoàn toàn thua
“chế độ man rợ”. Sự kéo lùi lại “sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền
Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau” đã không thành
công! Sau 44 năm, người ta có thể thấy rõ điều này hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ
mà văn hóa VNCH – sản phẩm của nền giáo dục khai phóng, của tinh thần sáng tạo
tự do, của những tinh hoa kết tụ từ ba miền Bắc-Trung-Nam – lại trỗi dậy mạnh mẽ
đến như vậy. Những nhà sách lớn giờ đây đầy tác phẩm trước 1975 được in lại (dù
không ít quyển bị cắt xén kiểm duyệt). Những quyển sách về miền Nam được ghi
chép lại một cách tỉ mỉ và công phu cũng xuất hiện liên tục. Nhạc “ngụy” đã chẳng
còn được hát và nghe lén lút. Nó được hát trên truyền hình và phát thanh, trong
các cuộc thi “bolero đi cùng năm tháng”. Phải! Văn hóa VNCH chưa bao giờ ngưng
“đi cùng năm tháng” với dân tộc. Nó cho thấy dân tộc luôn lớn hơn cái gọi là “Đảng”.
Nó cho thấy kiểm duyệt chẳng có chút giá trị nào đối với tâm hồn và cảm thụ của
người dân. Nó, cuối cùng, cho thấy một điều lớn nhất mà muốn hay không cũng phải
thừa nhận: nền văn hóa nào có tính vượt trội hơn thì nó thắng!
Internet và mạng xã
hội đã hỗ trợ rất nhiều trong làn sóng hồi sinh văn hóa VNCH. Nhiều trang web
sách cũ đã mọc ra. Các “fan page” sách VNCH, nhạc vàng, Sài Gòn xưa… cũng xuất
hiện nhan nhản. Một khảo sát nhỏ cho thấy cụ thể hơn. Trong khi trang “Nhạc Đỏ
chọn lọc” (facebook.com/nhacdochonloc/)
có 72 người like và 81 follow thì trang “Nhạc Vàng” (facebook.com/nhacvang/) có
188.737 like và 209.515 follow (khảo sát được truy cập lúc 8 am giờ VN, ngày
26-4-2019). Việt Nam sau “ngày thống nhất 1975” đã không thể giống miền Bắc sau
1945. Người ta đã hoàn toàn thất bại trong việc “chọc mù mắt con người, bịt lỗ
tai con người”, ít nhất về văn hóa.
Một Việt Nam cộng sản,
dù rập khuôn mô hình chính trị Trung Quốc, đã không thể giống Trung Quốc. Chế độ
cộng sản Việt Nam không thể biến người dân Việt Nam thành một “đám ngu dân” như
cách cộng sản Trung Quốc muốn. Khi thống nhất đất nước, Trung Quốc chẳng có một
“miền Nam dân chủ” nào cả. Nỗ lực bắt chước Trung Quốc, đối với cộng sản Việt
Nam, là bất khả thi. Nền dân chủ non trẻ mà miền Nam thụ hưởng, sau “ngày thống
nhất”, đã trở thành một thứ “kháng thể” giúp chống lại, bằng cách này cách kia,
những áp đặt phi dân chủ và phi tự do, đặc biệt trong văn hóa. Yếu tố kháng thể
này đã âm thầm lan rộng. Nó tạo ra những ảnh hưởng nhất định. Nó ngấm ngầm
nhưng nó mạnh mẽ. Nó hồi sinh và nó phát triển tự nhiên. Không ai có thể chặn nổi
luồng gió trong lành này. Nó tạo ảnh hưởng ngay cả trong hệ thống của chế độ
toàn trị. Đã có lúc người ta “kiếm chuyện” bằng cách “đặt vấn đề” rằng “chiến
trường anh bước đi là chiến trường nào” (trong ca khúc “Con đường xưa
em đi” của nhạc sĩ Châu Kỳ) nhưng rồi cũng bất thành. Khi tuyên bố “cấp phép”
cho ca khúc “Ly rượu mừng”, người ta chắc hẳn đã uống một ly cồn đắng nghét bởi
phải đầu hàng trước sự tồn tại hiển nhiên không chỉ của một ca khúc mà cả một nền
văn hóa.
Ánh sáng văn minh
luôn lấn át bóng tối mọi rợ. Và bản năng tự nhiên của con người là luôn tìm đến
ánh sáng.
No comments:
Post a Comment