25/04/2019
“…khi Tổng thống
không còn đủ khả năng thực thi quyền lực và nghĩa vụ của mình, Phó Tổng thống sẽ
tiếp quản thẩm quyền này với danh nghĩa Quyền Tổng thống…”
(Tu chính án thứ 25 – Hiến pháp Liên bang Hoa Kỳ)
(Tu chính án thứ 25 – Hiến pháp Liên bang Hoa Kỳ)
*
Tổng thống Mỹ
Donald Trump bắt đầu nắm giữ quyền lực của Nhà Trắng vào năm 2017 ở tuổi 71. Vì
vậy, sức khỏe của ông là một vấn đề được báo chí bàn tán rất sôi nổi. Đỉnh
điểm là việc một số dân biểu đảng Dân chủ bắt đầu soi mói đến sức khỏe
và “sự minh mẫn” của ông xem có nên vận dụng Tu chính án thứ 25 để bắt buộc một
tổng thống từ nhiệm vì lý do không đủ sức khỏe để quản trị quốc gia hay không.
Trump, đáp lại
không chỉ bằng một bản báo
cáo sức khỏe được công bố rộng rãi ghi nhận ông đang ở tình trạng sức
khỏe “xuất sắc”, thậm chí ông còn chủ động đề
nghị bác sĩ của Nhà Trắng thực hiện một cuộc kiểm tra khả năng nhận thức
(cognitive exam). Đây là một loại kiểm tra không nằm trong báo cáo kiểm tra sức
khỏe định kỳ của tổng thống Hoa Kỳ, nhưng được Trump vận dụng để “dọa nạt” những
ai cho rằng ông không còn đủ minh mẫn để làm việc nữa.
Cuộc đấu đá chính
trị này cho chúng ta hai kết luận thú vị về vấn đề công khai thông tin sức khỏe
lãnh đạo tại Hoa Kỳ.
Điểm thứ nhất, sức
khỏe lãnh đạo là một thông tin có thể sẽ bị soi mói. Thật ra các nhà lập pháp
hay người dân rõ ràng có quyền nghi vấn và đòi hỏi loại thông tin này. Một người
đủ sức khỏe thể chất lẫn tinh thần là điều người dân nào cũng kỳ vọng ở người
lèo lái công việc quản trị quốc gia đầy áp lực.
Điểm thứ hai, minh
bạch thông tin sức khỏe lãnh đạo là cách tốt nhất để hạn chế kiểu chính trị
“tán dóc”, chính trị “trà dư tửu hậu”, và những tin đồn liên quan đến chuyện
thâm cung bí sử. Đó cũng là cách để một hệ thống chính trị tỏ ra sòng phẳng với
những người dân đã chọn mình làm đại diện.
Tại Việt Nam, những
câu chuyện về sức khỏe lãnh đạo rất nhiều, rất phổ biến, nhưng toàn chỉ là
“chuyện kể đêm khuya”. Chúng ta không biết gì cả cho đến khi chuyện đã rồi.
Ngay cả ngày chết của nhiều vị lãnh đạo quan trọng của quốc gia cũng phải chờ
chỉ đạo, nghị quyết mới được công bố. Cách thức làm việc này, theo tôi, không
phải là một thực hành tốt nếu chúng ta hướng đến xây dựng môi trường chính trị
lành mạnh, minh bạch.
Bác sĩ Nhà Trắng công bố kết quả kiểm tra sức khoẻ của
Tổng thống Donald Trump, ngày 17/1/2018. Ảnh: CNN.
Vì sao cần minh bạch thông tin sức khỏe
lãnh đạo
Vấn đề thông tin sức
khỏe lãnh đạo được chính thức luật hóa tại Việt Nam trong Luật
Bảo vệ Bí mật Nhà nước 2018, quy định rằng “thông tin bảo vệ sức khỏe lãnh
đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước” nằm trong phạm vi bí mật nhà nước.
Tuy nhiên, việc
phân loại và ban hành danh mục bí mật nhà nước chính thức vẫn còn phụ thuộc vào
việc chính phủ tiếp nhận đề xuất từ các cơ quan nhà nước, xây dựng mô hình bảo
vệ, phương pháp bảo vệ thông tin mật và chi tiết hóa trong các nghị định, thông
tư hướng dẫn. Đáng tiếc là luật chỉ vừa ban hành vào tháng 11 năm 2018, nên vẫn
chưa biết liệu loại thông tin liên quan đến sức khỏe của lãnh đạo cấp cao sẽ
thuộc diện thông tin mật cấp độ nào, và sẽ được bảo vệ như thế nào.
Song, cho đến nay,
có thể khẳng định rằng thông tin về tình trạng và vấn đề bảo vệ sức khỏe lãnh đạo
đã được Việt Nam luật hóa trở thành một dạng tài liệu mật quốc gia và được bảo
vệ như rất nhiều nguồn thông tin mật khác.
Thật ra đây không
phải là chuyện chỉ có ở Việt Nam. Trong quyển “Bên
trong Kremlin của Gorbachev: Hồi ký của Yegor Ligachev”, tác giả Ligachev
đã phác họa toàn cảnh tình trạng sức khỏe của các lãnh đạo Liên Xô. Theo đó, sức
khỏe của lãnh đạo đảng và nhà nước luôn được xem là bí mật nhà nước và được bảo
vệ hết mức. Với tư cách là một chính trị gia cấp cao trong nhà nước Liên bang
Xô Viết, Ligachev phản đối cách tiếp cận trên. Ông nhận định:
“Đến cuối cùng, sức
khỏe của một con người ở cấp độ chính trị này không chỉ là vấn đề cá nhân nữa.
Cùng với trí tuệ, đạo đức chính trị và các tiêu chuẩn khác, sức khỏe thể chất
và tinh thần của một chính trị gia sẽ là những yếu tố căn bản nhất để người đó
có thể đưa ra những chính sách đúng mực, chưa nói đến việc chúng có thành công
hay không”.
Ligachev còn cảnh
báo, việc giữ bí mật thông tin sức khỏe của những nhà lãnh đạo sẽ tạo kẽ hở cho
những kẻ dưới quyền – dù là một vài cá nhân hay cả một băng nhóm chính trị –
nhân cơ hội thao túng chính trường, tạo ra hiện tượng “buông rèm nhiếp chính”
đáng lẽ chỉ nên xuất hiện ở thời kỳ phong kiến.
Trong một nền dân
chủ, việc công khai sức khỏe lãnh đạo là nhân tố tối quan trọng để bảo đảm rằng
người dân biết tường tận về tình hình của người đang nhân danh mình lèo lái quốc
gia. Từ đó, các thiết chế dân chủ có thể can thiệp kịp thời khi vấn đề này gây ảnh
hưởng đến an ninh và lợi ích quốc gia. Đây mới thật sự là cách mà chúng ta bảo
vệ quốc gia.
Bệnh tật và cái chết của Chủ tịch
nước Trần Đại Quang vào năm 2018 đã tạo ra một hiện tượng chính trị hiếm có: sự
lên ngôi của Nguyễn Phú Trọng với tư cách là người đứng đầu cả đảng và nhà nước.
Ảnh: chinhphu.vn.
Nói đi cũng phải nói lại
Cho đến hiện nay,
có thể khẳng định rằng rất ít quốc gia coi sức khỏe của lãnh đạo là bí mật quốc
gia. Việt Nam do đó chắc chắn thuộc nhóm số ít trong câu chuyện này. Song lại
cũng vô cùng không công bằng cho Việt Nam nếu cho rằng chỉ có ở Việt Nam chuyện
này mới nhiêu khê như vậy.
Ở Hoa Kỳ, dù không
được xem là bí mật nhà nước, không thể tìm thấy quy
định nào bắt buộc các lãnh đạo, các ứng cử viên tranh cử cho chức danh
tổng thống phải công bố các tài liệu về sức khỏe của mình. Truyền thống này chỉ
được hình thành vào nửa cuối thế kỷ 20. Trong Tu chính án thứ 25, khái niệm “đủ
khả năng để nắm giữ chức vụ” (“being fit for office”) cũng không phải là một
nguyên tắc pháp lý rõ ràng, không được định nghĩa rõ ràng và cũng không có cơ
chế thực thi. Họa may, chúng ta phải chờ đến khi Tối cao Pháp viện giải thích
thì mới rõ.
Không chỉ vậy, có rất
nhiều vị tổng thống Hoa Kỳ đã phải giấu giếm tình trạng ốm đau bệnh tật của
mình để duy trì sự ổn định chính trị và an ninh quốc gia. Một trong những trường
hợp tệ nhất, phải kể đến bệnh tình của Tổng thống Woodrow Wilson – vị
tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ.
Ông nhậm chức vào
năm 1913. Ngay tại thời điểm này, nhiều bác sĩ và chuyên gia y khoa đã nhận định
rằng ông chắc chắn không thể tại vị quá một năm. Nhận định này không đúng hoàn
toàn, nhưng vào năm 1919, khi ông đang ở nhiệm kỳ thứ hai, bác sĩ ghi nhận ông
bị méo mồm – một dấu hiệu điển hình của chứng đột quỵ. Vào một buổi sáng tháng
10/1919 – giai đoạn quan trọng để xây dựng danh tiếng cho ứng cử viên đảng Dân
chủ sẽ tranh cử tiếp theo – Wilson thức dậy và phát hiện mình bị liệt nửa người.
Vợ ông, bà Edith
Wilson, nhanh chóng can thiệp, giữ bí mật về tình trạng sức khỏe của chồng, bảo
vệ danh tiếng về sự minh mẫn, năng lực của Wilson và sự ổn định của chính quyền
dưới trướng ông. Nói cách khác, Edith đang buông rèm nhiếp chính. Và người dân
cả nước thì không được biết gì về chúng cho đến khi nhiệm kỳ của ông chính thức
kết thúc vào năm 1921.
Tuy nhiên, cũng cần
phải nói rằng người Mỹ không thích bị lừa hay bị giấu giếm. Một trong những lý
do khiến tình trạng nói trên diễn ra là bởi vì Tu chính án thứ 25 chỉ được
thông qua sau nhiều tranh cãi chính trị vào năm 1967, mà nguyên nhân một phần
xuất phát từ vụ bê bối của Wilson xảy ra cách đó hơn 50 năm.
***
Tựu chung, quyền được
biết về tình hình sức khỏe lãnh đạo, theo tôi nghĩ, nên là một quyền cơ bản của
công dân. Đó không chỉ đơn giản là thông tin để có thông tin, đó là thông tin để
người dân biết liệu rằng người lãnh đạo của mình có còn đủ trí lực và thể lực để
đưa ra những quyết định đúng đắn hay không. Không quan tâm đến vấn đề này đôi
khi để lại những hệ quả hết sức hệ trọng.
Theo nghiên cứu “Bệnh
tật, Chứng mất trí nhớ và Tuyệt vọng: Những căn bệnh nghiêm trọng của Nguyên thủ
Quốc gia” (Diseased, demented, depressed: serious illness in Heads of State) của
David Owen, một bác sĩ – chính trị gia lừng danh của Vương Quốc Anh, ông liên kết
bệnh lý của nhiều chính trị gia châu Âu với sự trỗi dậy của… Adolf Hitler.
Owen cho rằng, bệnh
ung thư hay xơ cứng động mạch đều có khả năng dẫn đến trạng thái tâm lý trầm cảm,
làm giảm động lực và năng lượng chính trị (chưa kể đến những đau đớn thể xác).
Điều này, đương nhiên tác động tiêu cực đến khả năng đưa ra quyết sách của một
nhà lãnh đạo; khiến họ có xu hướng chấp nhận “hiện trạng chính trị” (status
quo) như nó đã từng; thiếu quyết đoán, không giải quyết được vấn đề và thường
làm tình hình tồi tệ hơn. Các căn bệnh của Thủ tướng Anh Ramsay MacDonald, của
Tổng thống Phần Lan Marshal Pilsudski hay Tổng thống Đức Paul von Hindenberg đã
khiến họ bị suy giảm năng lực chính trị đáng kể, từ đó mở đường cho sự trỗi dậy
của Hitler.
Nếu sức khỏe ảnh hưởng
tới chính trị đến thế, việc đòi hỏi thông tin về sức khỏe của lãnh đạo quốc gia
có gì sai hay không?
No comments:
Post a Comment