Nguyên bản tiếng Anh của Uyên
Nguyễn
Thắng Đỗ
chuyển ngữ
27/04/2019
“Trái pháo nổ rất gần
làm má hết hồn nên má bỏ chạy”, má tôi kể thế khi bà hồi tưởng lại về tính đãng
trí của mình giữa cuộc giao tranh. “Chạy chừng 30 thước rồi mới phát hiện là má
đang ôm cái gối, chớ không phải ôm con,” bà bẽn lẽn khúc khích cười.
Đó là vào khoảng
ngày 30 tháng tư năm 1975 tại Đà Nẵng, một trong những thành phố chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất trong chiến tranh Việt Nam. Tôi thích thú nghe bà kể chuyện. Tôi
chưa hề có giây phút nào cảm thấy bị bỏ rơi hay thiếu tình thương của má, nên
chuyện má quên ôm tôi theo không làm tôi thắc mắc. Tôi chỉ kinh ngạc khi nghĩ tới
má chạy vào vùng bom đạn để cứu đứa con gái mới hai tháng. Đây là câu chuyện đầu
tiên về đời mình tôi được biết – câu chuyện của một đứa bé kẹt ở khúc quanh lịch
sử; câu chuyện về tình thương vô điều kiện của người mẹ dành cho đứa con; và
câu chuyện trong giờ phút đất nước đổi chủ, khi con người sống qua những hệ lụy
của chiến tranh.
Tôi đã biết sẽ mất
má ngay cả trước khi bà ra đi. Không phải là tôi tiên tri gì. Hồi nào tới giờ, như
anh tôi vẫn thường nói, tôi luôn luôn “để ý rất kỹ, nhiều khi tới mức làm người
khác khó chịu.” Đó là mười năm rưỡi sau khi tôi sinh ra đời. Chúng tôi đang bập
bềnh đâu đó ngoài khơi Việt Nam, trên một chiếc thuyền rách nát và quá mong
manh để cưu mang ba mươi mốt mạng người; quá thiếu an toàn để vượt biển, chứ đừng
nói tới mục tiêu đầy tham vọng là đến được nước Mỹ.
Má ôm cơ thể gầy gò
và khô cằn của đứa em gái một tuổi rưỡi vào lòng, dưới ánh nắng nhiệt đới thiêu
đốt. Bà nhìn nó chằm chặp một cách tuyệt vọng, làn da bị nứt nẻ của đứa bé do sức
nóng, nước biển và khát. Má lúc đó đã mất ba đứa con rồi, và tôi thấy bà vuốt
ve em tôi nhè nhẹ, dường như mong rằng hơi ấm và sự săn sóc dịu dàng của bà có
thể giữ em tôi sống thêm vài phút nữa. Khi em tôi trút hơi thở cuối cùng, mặt của
má tôi chuyển từ một người mẹ bám víu vào niềm hy vọng mong manh, đến một người
phụ nữ không còn lý do để sống nữa. Má có thể nói bằng ánh mắt, và khi bà ngẩng
mặt lên từ đứa em lúc đó đã chết để chuyển chầm chậm sang nhìn tôi, cho đến giờ
phút này tôi chưa thấy cặp mắt nào buồn như thế, và tôi biết tôi sẽ mất luôn cả
má.
Tôi khóc dữ dội
không kềm được, gần như tới độ bị co giật. Bề ngoài, có vẻ như tất cả sự khổ
đau của tôi là do cái chết của đứa em, nhưng tôi biết mình đang khóc cho cả em
lẫn má. Má luôn luôn là một con người kiên cường – dẻo dai tuy trầm lặng –
nhưng mặt bà lúc này không còn chút dấu hiệu phấn đấu gì nữa. Con là tất cả, và
bị mất bốn đứa con trong mấy ngày, cùng với viễn tượng sẽ mất thêm cả hai đứa
con trai và tôi, là điều quá sức chịu đựng của bà.
Anh tôi phát hiện
má đã chết trong giấc ngủ hai ngày sau đó. Bà lúc đó bằng tuổi tôi bây giờ. Em
trai tôi cũng qua đời đêm đó. Và tôi mừng là má đã không phải chứng kiến cảnh
em trai tôi chết.
Ngày 30 tháng tư với
tôi chưa bao giờ có ý nghĩa thắng hay bại. Nó chỉ tượng trưng cho những cái chết
oan uổng, cho những hy vọng và ước mơ bị dập tan. Có người muốn tôi ủng hộ hay
kết án phe này hay phe kia, Việt hay Mỹ. Tôi không làm thế. Thay vào đó, tôi vững
vàng sống trong một thế giới mà tôi không muốn mang chiến tranh đến với ai, và
tôi làm những gì trong khả năng của mình để ngăn ngừa các hành động ác độc xảy
đến cho người khác.
Đôi khi vì chúng ta
đã từng làm nhân chứng cho cái chết, chúng ta trở nên sáng suốt hơn về cuộc sống.
Tôi nghĩ điều đó đúng với tôi, và đã được lập lại nhiều lần. Chúng ta nên vận động
cho mọi người trên thế giới này đạt được một mục đích chung – sống một cuộc đời
có ý nghĩa. Những gì còn lại chẳng có giá trị bao nhiêu, kể cả tiền bạc, quyền
lực và danh vọng.
Uyên Nguyễn và Thằng Đỗ là thành viên Hội Đồng Quản Trị của Pivot, Hội Người Mỹ Gốc Việt Cấp
Tiến.
No comments:
Post a Comment