Trung
Quốc một trăm năm cô đơn
Hiếu
Chân/Người Việt
May 29, 2021
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/trung-quoc-mot-tram-nam-co-don/
Chỉ một tháng nữa ở Trung Quốc sẽ diễn ra sự
kiện chính trị lớn nhất trong nhiều năm: đại lễ kỷ niệm đệ bách chu niên (100
năm) ngày thành lập đảng Cộng Sản Trung Quốc – đảng chính trị lớn nhất và quyền
lực nhất hành tinh. Chưa bao giờ Trung Quốc giàu mạnh như lúc này, nhưng cũng
chưa bao giờ đất nước 1.4 tỷ dân lại cảm thấy cô đơn và bị thế giới xa lánh như
lúc này.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2021/05/A1-Trung-Quoc-co-don-1-1536x1012.jpg
Cái nhìn tiêu cực đối
với Trung Quốc của người Mỹ đã tăng vọt từ 47% vào năm 2017 lên mức đáng kinh
ngạc 73% vào năm 2020. Trong hình, người biểu tình Hồng Kông và những người ủng
hộ Đài Loan giẫm lên quốc kỳ Trung Quốc. (Hình minh họa: AP Photo/Chiang
Ying-ying, File)
Hoa Kỳ là một đất nước bị chia rẽ trầm trọng.
Hầu như mọi ý tưởng, đề nghị đưa ra nghị trường đều có hai luồng tư tưởng ủng hộ
và phản đối, quyết liệt như nhau, bất phân thắng bại, từ chuyện trợ cấp cho người
thất nghiệp đến vụ điều tra cuộc bạo loạn tấn công tòa nhà Quốc Hội. Nhưng có một
chuyện cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa đều đồng ý với nhau cao độ: mối đe dọa từ
Trung Quốc.
Tổng Thống Joe Biden có lần nói: “Người Trung
Quốc đang ăn mất bữa trưa của chúng ta.” Thượng Nghị Sĩ Josh Hawley (Cộng
Hòa-Missouri) thì cho rằng Trung Quốc đang đi gần tới mục tiêu thống trị cả thế
giới.
Có một vấn đề thời sự rất nóng mà quan điểm của
hai đảng đang tiệm cận với nhau: nguồn gốc của đại dịch COVID-19. Từ chỗ cho rằng
virus SARS-Cov-2 gây đại dịch có nguồn gốc tự nhiên, truyền nhiễm sang con người
một cách ngẫu nhiên từ động vật, cụ thể là con dơi, giới khoa học dần dần chuyển
sang giả thuyết SARS-Cov-2 bị rò rỉ ra cộng đồng từ một phòng thí nghiệm ở
thành phố Vũ Hán, Trung Quốc.
Từ đầu dịch đến nay, giả thuyết “rò rỉ từ
phòng thí nghiệm” luôn bị giới khoa bảng và truyền thông cho là sai lầm, là
“thuyết âm mưu” nhằm đổ tội cho Trung Quốc dù cựu Tổng Thống Donald Trump và
các giới chức hàng đầu của đảng Cộng Hòa nhiều lần nói bóng gió rằng Hoa Kỳ “có
bằng chứng” rằng virus gây đại dịch COVID-19 đã sổng ra từ phòng thí nghiệm ở
Vũ Hán sau một tai nạn.
Đảng Dân Chủ – vốn bác bỏ mọi tuyên bố của ông
Trump bất kể đúng sai – cho rằng giả thuyết “phòng thí nghiệm” chẳng qua chỉ là
thủ đoạn đánh lạc hướng dư luận khỏi thành tích kém cỏi của chính quyền Trump
trong việc ứng phó với cuộc khủng hoảng đại dịch COVID-19.
Thế nhưng, quan điểm của đảng Dân Chủ đã thay
đổi, chuyển sang ủng hộ giả thuyết virus bị rò rỉ từ phòng thí nghiệm, gần với
quan điểm của đảng Cộng Hòa. Sau khi nhiều nhà khoa học nổi tiếng thế giới đăng
thư ngỏ yêu cầu tổ chức cuộc điều tra độc lập, toàn diện và minh bạch về nguồn
gốc của virus Corona, đặc biệt sau khi chính phủ Bắc Kinh bác bỏ đề nghị của Tổ
Chức Y Tế Thế Giới (WHO) tổ chức một cuộc điều tra như vậy, lần thứ hai, thì
chính phủ Biden đã lên tiếng.
Hôm Thứ Tư, 26 Tháng Năm, Tổng Thống Joe Biden
yêu cầu cộng đồng tình báo Hoa Kỳ phải “nỗ lực gấp đôi” để xác định nguồn gốc của
virus COVID-19 và báo cáo cho ông trong vòng 90 ngày. Dù ông Biden chưa xác quyết
trong hai giả thuyết về nguồn gốc virus, “tự nhiên” và “phòng thí nghiệm,” giả
thuyết nào là đúng, nhưng quyết định đẩy mạnh điều tra ngụ ý bản thân ông đang
tin rằng giả thuyết phòng thí nghiệm là có cơ sở, cần được tiếp tục theo đuổi.
Áp lực của dư luận và Quốc Hội có thể buộc ông
Biden đi đến quyết định như vậy, nhưng cũng có phần do thái độ của Trung Quốc,
bất hợp tác, phòng thủ và cản trở các nhà khoa học điều tra nguồn gốc đại dịch,
buộc mọi người phải nghĩ rằng Bắc Kinh đang ra sức giấu giếm, che đậy một sự thật
nào đó bất lợi cho họ.
Thử tưởng tượng, nếu một cuộc điều tra độc lập
của các chuyên gia tổ chức WHO xác nhận virus COVID-19 đã bị sổng khỏi phòng
thí nghiệm của Viện Nghiên Cứu Virus Vũ Hán (WVI) vào cuối năm 2019, truyền bệnh
cho một số nhân viên của viện này trước khi lan ra cộng đồng dân cư và gây nên
đại dịch COVID-19 như thông tin hiện nay thì phản ứng của các nước trên thế giới
sẽ như thế nào? Hàng triệu gia đình có thân nhân tử vong vì con virus quái ác sẽ
nghĩ sao về hành vi của Trung Quốc che đậy nguồn gốc đại dịch và vô trách nhiệm
trong việc ngăn chặn nó từ đầu?
Bởi vậy, quyết định của chính phủ Mỹ điều tra
tình báo về nguồn gốc COVID-19 có thể coi là một cái tát vào mặt chính phủ Bắc
Kinh, làm Trung Quốc giãy nãy lên phản bác.
Vụ nguồn gốc virus COVID-19 chỉ là một ví dụ mới
nhất cho thấy quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc đã rơi xuống tận đáy, khó mà hồi phục.
Có thể kể ra rất nhiều sự kiện khác đang diễn ra cho thấy Trung Quốc đã đánh mất
lòng tin của Hoa Kỳ, của các chính trị gia lẫn thường dân Mỹ, chẳng hạn như những
tuyên bố của ông Kurt Campbell – điều phối viên về chính sách Châu Á của Hội Đồng
An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ – rằng “thời kỳ gắn bó giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã
vĩnh viễn chấm dứt;” hay cuộc điện đàm căng thẳng giữa Đại Diện Thương Mại Mỹ
Katherine Tai với Phó Thủ Tướng Trung Quốc Lưu Hạc (Liu He) chung quanh cung
cách làm ăn không công bằng của Bắc Kinh.
***
Nhưng quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc xấu đi chỉ là
một phần trong một xu hướng lớn, trên toàn cầu, theo đó Trung Quốc bỗng thấy
mình rơi vào cảnh “thập diện mai phục” khi các nước chung quanh đều nhìn Bắc
Kinh với con mắt e dè và cảnh giác.
Thứ Năm tuần trước, ngày 20 Tháng Năm, Nghị Viện
Châu Âu – cơ quan lập pháp chung của 27 nước thành viên Liên Minh Châu Âu (EU)
– bỏ phiếu đồng thuận “đóng băng” việc xem xét phê chuẩn hiệp định đầu tư toàn
diện Trung Quốc-EU, gọi tắt là CAI (Comprehensive Agreement on Investment).
CAI là một hiệp định đầu tư và thương mại đầy
tham vọng, cho phép các công ty của hai bên đi vào thị trường của nhau một cách
thuận lợi, không bị rào cản; dù xét về thực lực nó mang lại cho Trung Quốc nhiều
lợi ích hơn trong việc khai thác thị trường và năng lực công nghệ vượt trội của
Châu Âu. Hiệp định được ký kết vào ngày cuối cùng của năm 2020 sau bảy năm đàm
phán, bất chấp sự can ngăn của ông Jake Sullivan, cố vấn An Ninh Quốc Gia trong
chính phủ Joe Biden sắp nhậm chức ở Hoa Kỳ.
Các phân tích gia cho rằng, Trung Quốc cố sống
cố chết để ký cho được hiệp định CAI với EU vì ngoài giá trị về kinh tế-thương
mại, đây là một nước cờ chiến lược quan trọng của Bắc Kinh: nó sẽ đóng một “cái
nêm” vào mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương, đẩy Hoa Kỳ và EU ra xa nhau. Không có
thời điểm nào thích hợp để làm việc đó hơn là những ngày cuối nhiệm kỳ tổng thống
của ông Trump, khi quan hệ Hoa Kỳ-EU đang lạnh nhạt vì chính sách “American
First” của ông cựu tổng thống.
Quyết định của EU đình chỉ tiến trình phê chuẩn
hiệp định CAI gây sốc cho giới chính trị và kinh doanh Trung Quốc. Nhưng xét
cho cùng, chính thái độ ngạo mạn của Bắc Kinh đã dẫn tới hậu quả đó. Hồi Tháng
Ba, EU – cùng với Hoa Kỳ, Canada – ban hành một loạt biện pháp trừng phạt nhỏ đối
với bốn quan chức địa phương và cơ quan an ninh tỉnh Tân Cương (Xinjiang) của
Trung Quốc do hành vi đàn áp người thiểu số Duy Ngô Nhĩ (Uighur) theo Hồi Giáo,
giam cầm hàng triệu người trong các trại tập trung trá hình. Dù vậy, EU không
tán thành việc mô tả các hành động của Trung Quốc ở Tân Cương là “tội diệt chủng”
như quan điểm của Hoa Kỳ.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2021/05/A1-Trung-Quoc-co-don-2-1536x1024.jpg
Giới khoa học dần dần
chuyển sang giả thuyết SARS-Cov-2 bị rò rỉ ra cộng đồng từ một phòng thí nghiệm
ở thành phố Vũ Hán, Trung Quốc. Trong hình, phụ nữ đeo khẩu trang để chống lại
sự lây lan của virus Corona đi bộ tại một trung tâm mua sắm ở Bắc Kinh, Trung
Quốc, hôm Thứ Hai, 24 Tháng Năm, 2021. (Hình minh họa: AP Photo/Andy Wong)
Bắc Kinh đã phản ứng một cách dữ dội: áp đặt lệnh
cấm vận đối với nhiều cá nhân và tổ chức của EU, trong đó có Ủy Ban An Ninh và
Chính Trị EU, Tiểu Ban Nhân Quyền của Nghị Viện Châu Âu, năm nghị sĩ hàng đầu của
Nghị Viện và một số học giả nghiên cứu về Trung Quốc. Biện pháp cấm những người
này nhập cảnh vào lãnh thổ Trung Quốc, Hồng Kông và Macau chẳng có ý nghĩa thực
tế gì nhưng đã làm cho EU thức tỉnh về một Trung Quốc hung hăng và ngạo mạn,
khó có thể là một đối tác bình đẳng và đáng tin cậy; số phận của hiệp định CAI
vì vậy đi vào ngõ cụt.
Trong EU, có lẽ Ý và Đức là hai nước có quan hệ
gần gũi với Trung Quốc nhất. Ý là nước EU duy nhất tham gia vào dự án “Vành Đai
và Con Đường” của Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình; còn Đức là nước có lợi nhất
trong buôn bán với Trung Quốc, thị trường Trung Quốc mang lại 40% doanh số và lợi
nhuận cho các hãng xe hơi Đức.
Hôm 17 Tháng Năm, Thủ Tướng Trung Quốc Lý Khắc
Cường (Li Keqiang) đã điện đàm với Thủ Tướng Ý Mario Draghi, yêu cầu Ý tác động
với Nghị Viện EU sao cho “hiệp định về đầu tư Trung Quốc-EU được phê chuẩn và
có hiệp lực sớm nhất có thể.” Tuy nhiên ông Draghi đã không ngăn cản được xu thế
chống Trung Quốc của các thành viên Nghị Viện và tiến trình phê chuẩn hiệp định
bị “đóng băng” như vừa nói.
Nước Đức dưới thời Thủ Tướng Angela Merkel
theo đuổi chiến lược gắn bó với Trung Quốc, vừa để mở thị trường cho các công
ty xuất cảng hàng hóa – nhất là xe hơi của Đức, vừa hy vọng kinh tế phát triển
sẽ mang lại dân chủ tự do cho người Trung Quốc. Hiệp định CAI nói trên được bà
Merkel thúc đẩy ký kết vội vàng vào ngày cuối cùng nước Đức giữ vai trò chủ tịch
luân phiên của Hội Đồng Châu Âu như là một biểu hiện của chiến lược gắn bó đó.
Nhưng niềm hy vọng của Đức đã tàn phai theo
chính sách ngày càng độc tài của ông Tập Cận Bình và người Đức đang tính tới sự
thay đổi. Thủ Tướng Merkel sẽ mãn nhiệm vào Tháng Chín tới và nếu trong cuộc bầu
cử Quốc Hội (Bundestag) sắp diễn ra, đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo của bà bị mất
ghế vào tay các đảng đối lập vốn chống lại việc kết thân với Bắc Kinh thì quan
hệ Đức-Trung Quốc sẽ đi vào một bước ngoặt lớn, khó cứu vãn được.
***
Ở Châu Á, hình ảnh của Trung Quốc cũng không
sáng sủa gì hơn. Hãy xem mối quan hệ của Trung Quốc với Úc, một trong những đối
tác thương mại chính của họ. Úc đã quyết đoán hơn đối với Trung Quốc về cả
thương mại và nhân quyền nhưng vẫn luôn nỗ lực để duy trì các mối quan hệ mang
tính xây dựng.
Năm ngoái, Canberra đã kêu gọi một cuộc điều
tra độc lập về nguồn gốc của COVID-19. Và đáp lại, Bắc Kinh đã tấn công Úc bằng
tất cả các loại hạn chế thương mại, cáo buộc chính phủ Úc “đầu độc quan hệ song
phương” và đòi Úc phải ngăn cấm báo chí và các viện nghiên cứu của nước này
đăng những bài viết tiêu cực về Trung Quốc.
Đại sứ quán Trung Quốc tại Canberra còn công bố
yêu sách 14 điểm lên án chính sách của chính phủ Úc. Mới đây nhất, Bắc Kinh
tuyên bố đình chỉ “vô thời hạn” mọi hoạt động trong khuôn khổ Đối Thoại Kinh Tế
và Chiến Lược Trung Quốc-Úc.
Hậu quả của chính sách đe dọa của Trung Quốc
là Úc quyết định hủy bỏ các thỏa thuận về “Vành Đai và Con Đường” mà tiểu bang
Victoria của nước này đã ký kết với Bắc Kinh, đồng thời tham gia tích cực hơn
cùng Hoa Kỳ, Nhật Bản và Ấn Độ trong liên minh Bộ Tứ (QUAD), chống lại sự bành
trướng của Trung Quốc ở Đông Á và Đông Nam Á.
Ấn Độ là một trường hợp khác. Năm ngoái, binh
lính Trung Quốc xâm nhập và đụng độ với binh lính Ấn Độ ở biên giới trên dãy Hi
Mã Lạp Sơn băng giá, chiếm cho Trung Quốc khoảng 100 cây số vuông đất hoang.
Nhưng kết quả là Ấn Độ, từ lâu đã không muốn tham gia vào một liên minh chống
Trung Quốc, hiện đã sẵn sàng thay đổi. Ấn Độ đã cấm hàng loạt ứng dụng điện
toán của Trung Quốc, loại trừ các công ty Trung Quốc ra khỏi mạng 5G của Ấn Độ
và đã cùng Hoa Kỳ, Úc và Nhật Bản thực hiện các cuộc tập trận Hải Quân lớn nhất
của họ trong hơn một thập niên qua.
Ở Đông Á, Đài Loan, Nhật Bản và các quốc gia
xung quanh Biển Đông có rất nhiều câu chuyện của riêng họ về việc Trung Quốc sử
dụng các cuộc tuần tra quân sự hung hăng và các hình thức đe dọa khác để khẳng
định lợi ích của mình chung quanh các quần đảo Đài Loan, đảo Senkaku của Nhật Bản
và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, thậm chí đi sâu xuống quần đảo
Natuna của Indonesia và củng cố việc chiếm đóng các bãi cạn Mischief,
Scarborough của Philippines…
Tất cả những chính sách hung hăng và ngạo mạn
của Bắc Kinh đã và đang gây ra những hậu quả trầm trọng cho hình ảnh toàn
cầu của nước này, làm giảm đáng kể sức mạnh mềm mà Trung Quốc đã cố công xây dựng.
Cái nhìn tiêu cực đối với Trung Quốc của người
Mỹ đã tăng vọt từ 47% vào năm 2017 lên mức đáng kinh ngạc 73% vào năm 2020. Đây
không phải là hiện tượng riêng ở Mỹ mà là xu thế chung của thời đại, của thế giới.
Cái nhìn tiêu cực đối với Trung Quốc của người
Canada đã tăng 40% lên 73%, từ 37% lên 74% ở Vương Quốc Anh, từ 32% lên 81% ở
Úc, từ 61% lên 75% ở Nam Hàn và từ 49% lên 85% ở Thụy Điển. “Nếu có một chủ đề duy nhất
trong đời sống quốc tế ngày nay thì đó là sự thù địch của công chúng đối với
Trung Quốc,” nhà bình luận chính trị Fareed Zakaria của báo The
Washington Post và đài CNN nhận định.
***
Cổ tích Việt Nam có câu chuyện về anh học trò
và con chó đá: một con chó bằng đá trước cổng đình cứ vẫy đuôi mừng anh học trò
nghèo mà nó biết sắp đỗ đạt làm quan to; nhưng từ khi được con chó đá cho biết
mình sắp thi đỗ, anh học trò bèn lên mặt đe nẹt hàng xóm láng giềng. Không chấp
nhận sự hung hăng và ngạo mạn như vậy, ông Trời bèn rút lại quyết định cho anh
ta thi đỗ, thế là hoạn lộ của anh bị đứt, anh ta mãi là anh học trò nghèo và
con chó đá không còn vẫy đuôi mừng anh nữa. Câu thành ngữ “Chưa đỗ ông nghè đã
đe hàng tổng” là từ câu chuyện này, để chỉ những kẻ hợm hĩnh lên mặt với đời một
cách vô lối.
Trung Quốc dưới sự cai trị của ông Tập Cận
Bình hành xử như một kẻ “chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.” Thời mới mở cửa dưới
quyền Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc theo chính sách ngoại giao khiêm tốn, kiên nhẫn,
và ôn hòa với mục đích bảo đảm bảo rằng sự trỗi dậy kinh tế vượt bậc của đất nước
sẽ không gây ra sự bất bình và phản ứng tiêu cực từ các quốc gia khác. Đặng dạy
các đồng chí “thao quang, dưỡng hối” (che chỗ sáng, nuôi chỗ tối) để tận dụng
thời gian, giả nghèo giả khổ để chờ cơ hội, làm cho cả thế giới ngộ nhận về một
nước Trung Quốc đang “trỗi dậy hòa bình.”
Chủ Tịch Tập Cận Bình đã thay đổi đường lối của
Trung Quốc, cả đối nội và đối ngoại. Ông ta đã củng cố quyền lực cho đảng Cộng
Sản và cho bản thân. Ông ta củng cố quyền kiểm soát của đảng đối với chính sách
kinh tế-xã hội, thiết lập một chế độ công an trị trong đó mọi người dân đều bị
theo dõi, kiểm soát và trừng trị mỗi khi có lời nói hoặc hành động trái với ý
muốn của đảng.
Đối ngoại, Bắc Kinh tận dụng lợi thế của một
thị trường đông đảo nhất thế giới và sức mạnh kinh tế-quân sự ngày càng lớn để
hành xử một cách hung hăng, trịch thượng qua cái gọi là “ngoại giao chiến binh
chó sói” (Wolf Warrior Diplomacy) đặt nền tảng trên chủ nghĩa dân tộc Đại Hán cực
đoan, theo đó bất kỳ nước nào cũng bị coi là “thế lực thù địch” để Bắc Kinh
không ngần ngại xỉ vả, đe nẹt và cưỡng bức.
Hậu quả của lối hành xử đó là Trung Quốc ngày
càng bị thế giới văn minh xa lánh, hoặc chỉ duy trì quan hệ ở mức tượng trưng với
những lời lẽ lịch sự mà không thực chất.
Trong 100 năm kể từ ngày đảng Cộng Sản Trung
Quốc được thành lập, Trung Quốc chỉ có một giai đoạn ngắn hòa đồng với thế giới
khi thực hiện phương châm của Đặng Tiểu Bình, còn trước và sau đó là những thời
kỳ phô trương sức mạnh, bành trướng thế lực. Và đó cũng là những thời kỳ Trung
Quốc bị cô lập, bị xa lánh trên thế giới.
“Khi làm tất cả những việc ấy, ông Tập đang
phá bỏ danh tiếng khó kiếm được của Trung Quốc như là một tay chơi khôn ngoan, ổn
định và hữu ích. Tất cả gợi nhớ đến một thời kỳ chính trị tập trung và chính
sách đối ngoại hiếu chiến – thời đại Mao Trạch Đông. Và điều đó sẽ không có kết
thúc tốt đẹp đối với Trung Quốc,” ông Zakaria nhận định. [qd]
No comments:
Post a Comment