Hòa
bình âm – hòa bình dương : Đoan Trang và hành trình tìm kiếm hòa bình dương
VINCENTE NGUYEN - LUẬT
KHOA
27/05/2021
Ảnh: Lân Thắng. Minh họa: Luật Khoa
Một trong những bài viết đầu tiên của Phạm
Đoan Trang mà tôi đọc được là bài “Tự do âm và tự
do dương”. [1] Ở góc nhìn của một sinh viên chỉ vừa mới ra trường như tôi
vào thời điểm đó, tự do âm (negative freedom) và tự do dương (positive freedom)
vừa là hai thuật ngữ thú vị, vừa là điểm khởi đầu cho một hành trình tư tưởng đầy
trắc trở và sẽ còn kéo dài rất lâu của riêng tôi:
Liệu loài người chỉ mong muốn chính quyền, nhà
nước và các ngoại lực khác để yên cho họ tận hưởng tự do âm? Hay chúng ta đang
đi đến giai đoạn phát triển mà công dân đòi hỏi sự can thiệp từ yếu tố bên
ngoài để họ có thể tận hưởng tự do dương?
Trong chặng đường tư tưởng này, tôi tình cờ
phát hiện ra một học thuyết khác cũng liên quan đến “âm – dương”.
Khi “hạnh phúc mãi
mãi về sau” chỉ là lời nói dối
Hãy tưởng tượng về một bộ phim thần thoại giả
tưởng.
Trong đó, những vị anh hùng của chúng ta bắt đầu
hành trình chinh phục của mình khi những chúa tể hắc ám xuất hiện. Mục tiêu của
họ là duy nhất: tiêu diệt đại ác nhân, mang lại hòa bình cho
vùng đất.
Sau cuộc phiêu lưu khắp các chân trời góc bể,
các anh hùng có màn chạm trán cuối cùng với đại ác nhân. Thế lực hắc ám bị tiêu
diệt, và mọi người sống hạnh phúc mãi mãi về sau.
Đó là sự phát triển tuyến tính thường thấy
trong hầu hết các bộ phim giả tưởng, cũng là cách hiểu phổ biến của con người về
hòa bình – “hòa bình âm” (negative peace). [2]
Hòa bình, hiểu đơn giản, là tình trạng xã hội
không tồn tại bạo lực (violence).
Hòa bình âm nhấn mạnh vào các yếu tố bạo lực
tiêu cực diện rộng như chiến tranh giữa các quốc gia hay xung đột vũ trang giữa
các nhóm sắc tộc. Nó lên án những hành vi xung đột bạo lực ngay lập tức, gây ảnh
hưởng đến trật tự công cộng và thách thức toàn bộ cán cân xã hội.
Những người mong muốn hòa bình âm từ đó mà đẩy
mạnh kêu gọi việc triệt tiêu các yếu tố xung đột và chiến tranh.
Đó có thể là đánh bại hoàn toàn một thế lực
tham chiến như cách mà chúng ta kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ Hai.
Đó có thể là sự hòa hoãn, nhượng bộ, đánh đổi
của các bên tham chiến và từ đó đi đến kết quả hòa bình, như cách mà Chiến
tranh Việt Nam hay xung đột Israel – Palestine gần đây chấm dứt.
Bạo lực không chỉ tồn tại trong chiến tranh
hay những xung đột khổng lồ. Những thứ bạo lực ám ảnh nhất, tàn nhẫn nhất lại
càng không phải là sản phẩm độc quyền của chúng.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2021/05/V-1024x575.jpg
Bạo lực không chỉ tồn tại trong chiến tranh hay những xung đột khổng lồ.
Ảnh từ sách “Cẩm nang nuôi tù”.
Trở lại với những khung trời thần thoại của
chúng ta ban nãy, liệu sau khi tiêu diệt chúa tể hắc ám, loài người có thật sự
thoát khỏi những giống loài thần thoại gây hại khác như tinh quái (troll) hay
quỷ lùn (goblin)?
Môi trường hòa bình âm trong xã hội đương đại
có thật sự là đấng cứu thế cho một thiếu nữ 15 tuổi bị cưỡng bức tập thể và
không còn bất kỳ công cụ xã hội, pháp lý nào để tìm lại công bình cho mình?
Hay sự hòa hoãn ngừng bắn giữa các cường quốc
có giúp ích được gì cho những gia đình bị đẩy vào trại tập trung, bị tước quyền
làm người, phải lênh đênh vô định trên biển để tìm kiếm chút tình người?
Bằng cách luyên thuyên về hòa bình âm và lối
diễn ngôn định hướng phổ quát (grand narrative), chúng ta quét vội những thứ bất
công và bạo lực khác xuống dưới thảm, như thể chúng vô nghĩa lý và thậm chí
không tồn tại. Chúng ta tự nhủ rằng chỉ cần đạt được hòa bình (hay đúng hơn là
hòa bình âm), mọi thứ sẽ trở lại “bình thường”.
Vấn đề ở chỗ, cái tình trạng bình thường ấy
cũng không chắc là thứ hòa bình mà chúng ta mơ ước.
Bạo lực – Hòa bình
âm – Hòa bình dương
Chính vì sự hời hợt và quan điểm sai lệch liên
quan đến cách hiểu phổ thông của khái niệm hòa bình, nhà xã hội học, triết gia
người Na Uy – Johan Galtung – phải đặt nền tảng mới cho triết học và cách
nghiên cứu mới về hòa bình.
Tác phẩm của ông mở đầu cho toàn bộ ngành
nghiên cứu về thuyết hòa bình (peace theory) và hòa bình học có tên gọi “Violence, Peace, and
Peace Research”. [3] Trong đó, Galtung cho rằng bạo lực diễn ra trong chiến
tranh hay xung đột chỉ đơn thuần là thứ bạo lực trực tiếp (direct violence) hay
bạo lực cá nhân (personal violence). Chúng đau đớn và tàn nhẫn, song triệt tiêu
được nhóm bạo lực đó không đồng nghĩa với việc chúng ta đã lấy lại được công
bình.
Từ đó, Galtung cho rằng cần phải mở rộng khái
niệm bạo lực hết mức có thể.
Ông nhận định: Bạo lực tồn tại bất kỳ khi nào
mà sự hoàn thiện về thể chất và tinh thần của một con người (somatic and mental
realizations) bị kìm hãm, khiến họ không thể đạt đến sự hoàn thiện kỳ vọng
(potential realizations). Trên cơ sở này, Galtung cho rằng có rất nhiều hình thức
bạo lực đang tồn tại: bạo lực văn hóa (cultural violence), bạo lực hệ thống
chính trị (structural violence), bạo lực giới tính (sexual violence), v.v.
Thậm chí, Galtung còn đưa ra tính tương đối của
bạo lực. Ông dẫn chứng, nếu một người chết vì bệnh lao (tuberculosis) vào thế kỷ
18, sự phổ biến của loại bệnh này cùng những giới hạn y học vào thời điểm đó
khiến nó không được xem là một loại bạo lực cụ thể.
Tuy nhiên, nếu vào tận thế kỷ 21, với nguồn
năng lực y tế gần như đã bất tận, việc một công dân chết do bệnh lao có thể là
biểu hiện của “structural violence”, theo Galtung. Theo cách tiếp cận của
Galtung, nghèo đói, bệnh tật, đàn áp hay tẩy não chính trị, v.v. đều là các sản
phẩm của bạo lực đương đại.
Nghèo đói, bệnh tật, đàn áp hay tẩy não chính trị, v.v. đều là các sản
phẩm của bạo lực đương đại. Ảnh: RFA.
Đặc biệt hơn, ông cũng cẩn thận tách biệt mình
khỏi lưỡng đề nan giải tư bản chủ nghĩa – xã hội chủ nghĩa.
Đối với Galtung, xã hội tư bản chủ nghĩa
nguyên thủy bị chỉ trích khi dành toàn quyền quyết định sản phẩm thừa và tư lợi
của quá trình sản xuất cho giới chủ.
Điều này hình thành nên một trật tự chính trị
bất công nơi giới chủ – những người đã đạt đến sự phát triển toàn diện – tiếp tục
thống trị phần sản phẩm thừa, trong khi những người khác tiếp tục vòng luẩn quẩn
của đói nghèo và bệnh tật.
Tuy nhiên, trong xã hội xã hội chủ nghĩa,
không phải phân phối tài sản, mà phân phối quyền lực mới là vấn đề. Thứ quyền lực
này, tương tự như vốn và tư bản, cũng có thể được chuyển hóa bất kỳ lúc nào và
thành bất kỳ thứ gì để duy trì một trật tự xã hội không công bình.
Điểm quan trọng mà Galtung muốn phân tích
không phải là chủ nghĩa hay lý tưởng. Thông điệp triết lý của ông đơn giản hơn,
nếu một người phải chịu nỗi thống khổ xã hội vốn có thể tránh được một cách
khách quan thì nghĩa là vũ lực đã được thực thi và hòa bình đang bị đe dọa.
Ông gọi đó là hòa bình dương.
Như vậy, hòa bình dương không chỉ nhắm đến việc
loại trừ chiến tranh hay xung đột bằng mọi giá. Nó còn có mục tiêu hoàn thiện
các thể chế xã hội, xây dựng công bình xã hội, thiết lập phương án bình đẳng
kinh tế khả thi, cân bằng sinh thái hay giúp công dân của mình có được những
quyền tự do chính trị – dân sự hết sức cơ bản.
Việc kết thúc một cuộc chiến tranh có thể là một
thành tựu trong việc xây dựng hòa bình âm, loại bỏ vũ lực trực tiếp và cá nhân.
Tuy nhiên, xã hội ấy vẫn không chắc chắn đạt được hòa bình dương.
Kết thúc sớm một cuộc chiến chỉ vì bạn muốn nó
như thế, song một nhà nước toàn trị lại mọc lên sau cuộc chiến?
Thỏa hiệp với một tổ chức khủng bố vì hy vọng
nó sẽ mang lại hòa bình cho cộng đồng?
Có hàng trăm lý do khiến cho việc thiết lập một
nền hòa bình âm chỉ để thấy nền hòa bình dương không được cải thiện, mà thậm
chí càng lụn bại.
Chặng đường của
Đoan Trang
Có một luận điểm thường được dùng để chống lại
Đoan Trang và hầu hết những nhà hoạt động mong muốn một xã hội công bình hơn:
chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, công lao của chính quyền đương đại là trời biển.
Đoan Trang và những người như cô phải biết ơn, chứ không phải chống phá.
Có hàng trăm câu hỏi có thể đặt ra để phản biện
những lập luận kiểu này.
“Ai là người bắt đầu và có dã tâm tham chiến
nhất trong chiến tranh Việt Nam?”
“Thế nào là chống phá?”
“Trong dân quyền có khái niệm biết ơn hay
không?”
…
Nhưng trong giới hạn của bài viết này, chắc chắn
bạn đọc nhìn thấy được người viết đi đến đâu.
Hình ảnh Đoan Trang trong một video giới thiệu “Báo cáo Đồng Tâm”. Ảnh:
FB Pham Doan Trang. Đồ họa: Luật Khoa.
Chiến tranh Việt Nam thật sự kết thúc, kẻ thắng
người thua đã định đoạt, hòa bình âm đã được thiết lập, nhưng hòa bình dương có
thật sự đã ca khúc khải hoàn trên mảnh đất này? Với những gì chúng ta thấy, hẳn
là chưa.
Đoan Trang biết rõ điều đó hơn bạn, hơn tôi,
hơn bất kỳ ai trong chúng ta.
Một người phụ nữ bé nhỏ với cách tự vệ duy nhất
là viết lách, cô bị bắt bớ, bị đe dọa, bị xâm phạm sự riêng tư và xúc phạm thân
thể, bị tấn công đến hỏng một chân, bị rượt đuổi bí bách suốt hàng năm trời. Đó
liệu có phải là thứ hòa bình mà chúng ta thật sự mơ ước?
Không chỉ vậy, chúng ta còn có những dân oan mất
đất, những người bị xét xử oan sai, những nhà hoạt động bị khủng bố ngày và
đêm, những cư dân mạng không dám nói ra những gì mình nghĩ vì lo ngại bị trả
đũa, những nhà báo không dám điều tra, những học giả không dám viết ra những
tri thức hay ho đáng lẽ nên để lại cho hậu thế, v.v.
Trong lúc mà số đông đang ca lên khúc khải
hoàn vì giết được tên chúa tể hắc ám cuối cùng, có thể chính tiếng hát ấy đang
át đi tiếng kêu cứu, tiếng khóc của những gia đình, những người phụ nữ, những
trẻ em bị đẩy ra bên lề xã hội.
Đoan Trang và những người như cô là những người
chủ động tìm kiếm, thật tâm lắng nghe, và tìm cách đáp lại những lời kêu cứu
đó. Thiếu họ, tôi không tin rằng có thể đạt được hòa bình dương ở bất kỳ xã hội
nào.
-------------------------
Tài liệu tham khảo
1. Trang, Đ. (2015, January 12). Tự do âm và tự do dương. Luật
Khoa Tạp Chí.
https://www.luatkhoa.org/2015/01/tu-do-am-va-tu-do-duong
2. Galtung J., Fischer D. (2013) Positive and Negative Peace. In: Johan
Galtung. SpringerBriefs on Pioneers in Science and Practice, vol 5. Springer,
Berlin, Heidelberg.
https://doi.org/10.1007/978-3-642-32481-9_17
3. Galtung, J. (1969). Violence, Peace, and Peace Research. Journal
of Peace Research,6(3), 167-191. Retrieved May 24, 2021, from http://www.jstor.org/stable/422690
No comments:
Post a Comment