Văn
Học Miền Nam: Ai trở lại với ai?
Trần
Doãn Nho/Người Việt
May 5, 2021
https://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/van-hoc-mien-nam-ai-tro-lai-voi-ai/
KENNEDALE, Texas (NV) – Tháng Tư, 1975, sau khi chiếm miền Nam, nhà cầm quyền Cộng Sản
tiến hành một chiến dịch quy mô, dài ngày, quyết liệt nhằm phá hủy và tiêu diệt
tận gốc nền Văn Học Nghệ Thuật Miền Nam.
Nhà văn Nguyễn Thị
Hoàng ký tặng sách. (Hình: Thiên Điểu/Tuổi Trẻ)
Nhưng bây giờ, 46 năm sau, nền văn học đó vẫn
tồn tại trong lòng đất nước, bất chấp ý định của nhà cầm quyền, được phục hồi ở
hải ngoại và ở một mặt nào đó, phát triển như một nền Văn Học Miền Nam nối dài.
(1)
Xin ghi lại một số tin tức sinh hoạt văn học
trong nước vào những tháng đầu năm 2021 liên quan đến Văn Học Miền Nam
1954-1975 và Văn Học Hải Ngoại:
“Căn Nhà An Đông Của Mẹ Tôi,” truyện và ký của
Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn Nhất Linh, dựng lại hình ảnh người
vợ của văn hào Nhất Linh, được nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản vào Tháng Hai,
2021.
Tám tháng trước đó (Tháng Bảy, 2020), một tác
phẩm khác cũng của Nguyễn Tường Thiết, “Nhất Linh, Cha Tôi,” dựng lại cuộc đời
và sự nghiệp của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, được nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam
tái bản. Một buổi tọa đàm về tác phẩm này được tổ chức vào chiều ngày 4 Tháng Bảy,
2020, tại quán Cà Phê Thứ Bảy, Sài Gòn, được mở đầu bằng một đoạn video gửi về
từ hải ngoại, thu hình tác giả Nguyễn Tường Thiết đọc lời giới thiệu tác phẩm của
mình.
Đầu Tháng Tư, 2021, Đài Phát Thanh và Truyền
Hình Tiền Giang liên tục đọc truyện ngắn của hai nhà văn quân đội, trong đó,
các nhân vật chính đều là người lính Việt Nam Cộng Hòa: Một truyện của Trần
Hoài Thư là “Gò Đồi Bên Kia Sông,” đọc vào ngày 5 Tháng Tư, 2021; và bốn truyện
của Phạm Văn Nhàn đọc vào các ngày 7, 8, 9 và 10 Tháng Tư, 2021, gồm “Hương
Xưa,” “Đất Khô Người Khổ,” “Vùng Đồi,” và “Tiếng Leng Keng.”
Trần Hoài Thư cho biết “Vùng Đồi” (2) là “truyện
nổi bật nhất của nhà văn Phạm Văn Nhàn viết về lòng nhân bản và tình chiến hữu
của người lính miền Nam. Truyện này do tạp chí Thư Quán Bản Thảo đăng cách đây
15 năm, và sau đó được tác giả lấy tựa “Vùng Đồi” để đặt cho tập truyện do cơ sở
Thư Ấn Quán xuất bản. Blog Trần Hoài Thư (3) ghi nhận đây là một “hiện tượng lạ,
sau hiện tượng nhạc Bolero” diễn ra trong nước.
Ngày 24 Tháng Tư, 2021, một buổi mạn đàm về
thơ Tô Thùy Yên, “Thơ Tô Thùy Yên – Để Mà Thương Nhớ Thơ,” diễn ra tại quán Cà
Phê Thứ Bảy, Sài Gòn, với diễn giả chính là Nhật Chiêu. Nhà nghiên cứu văn
chương này khẳng định: “Tô Thùy Yên chính là một nhà thơ lớn của Việt Nam, một
bậc thầy của tiếng Việt” – một tiếng Việt “được chưng cất tài hoa mà nếu nhiều
người không biết là một cái tội.” (4)
Và ồn ào nhất, vào ngày 19 Tháng Tư tại Hà Nội,
nhân dịp tái bản năm tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, gồm “Vòng Tay Học
Trò,” “Một Ngày Rồi Thôi,” “Cuộc Tình Trong Ngục Thất,” “Tiếng Chuông Chờ Người
Tình Trở Về,” “Tuần Trăng Mật Màu Xanh,” công ty Nhã Nam và trường Đại Học Văn
Hóa đã tổ chức một buổi tọa đàm với đề tài “Sự Trở Lại Của Văn Học Đô Thị Miền
Nam: Trường Hợp Nguyễn Thị Hoàng.” (5)
Cuốn “Vòng Tay Học
Trò” của Nguyễn Thị Hoàng trở lại sau 55 năm. (Hình: Phạm Hoa/Thanh Niên)
Tôi nói “ồn ào” là vì, qua buổi tọa đàm, một số
nhà nghiên cứu văn chương như Lại Nguyên Ân, Phạm Xuân Nguyên, Mai Anh Tuấn
không chỉ giới thiệu một tác giả mà còn đánh giá “sự trở lại” của Văn Học Miền
Nam trong vòng 20 năm qua ở trong nước.
Trước hết, phải công nhận là, từ chỗ lên án,
đay nghiến và phủ nhận đến chỗ thừa nhận vai trò và giá trị của Văn Học Miền
Nam là một bước tiến đáng kể. Nhưng dù cố gắng làm ra vẻ khách quan và thiện
chí, nhưng rõ ràng cách luận bàn về Văn Học Miền Nam của nhà văn này hay nhà
nghiên cứu nọ nghe ra vẫn ngọng nghịu, lỏi chỏi, khen chê lừng khừng, lấp lửng,
và thậm chí không giấu được sự xách mé và ghen tỵ.
Chẳng hạn như Mai Anh Tuấn
không úp mở cho rằng xuất bản lại một số tác phẩm Văn Học Miền Nam là nhằm thực
hiện chủ trương “hòa hợp hòa giải dân tộc” của nhà nước Cộng Sản. Đã từ lâu rồi,
đối với người dân miền Nam, không có chiêu bài nào láo lếu và rỗng tuếch hơn
chiêu bài này. Nhà cầm quyền Cộng Sản đã không hề/không muốn hòa giải với người
dân trong nước và với chính những người vốn nằm trong hàng ngũ của họ, vẫn tiếp
tục cấm đoán mọi phát biểu công chính và bắt bớ những người có tư tưởng trái
chiều, thì làm sao mà hòa giải được với một chế độ và một nền văn chương mà họ
xem là kẻ thù!
Và lại gọi Văn Học Miền Nam “văn học đô thị!”
Cái kiểu đặt tên này nghe đã không chuẩn, lại lươn lẹo. Nó vừa “giả” vừa
“gian,” theo Nguyễn Hưng Quốc.
Họ muốn khoanh vùng, vừa để hạ giá Văn Học Miền
Nam, vừa dành chỗ để có thể kèm theo vào đó thứ văn học bưng biền, rừng núi được
gọi là “văn học giải phóng” mà thực chất là những nghị quyết chính trị được dán
cái nhãn “văn học” do những nhà văn-cán bộ từ miền Bắc được nhà nước Cộng Sản
phân công vào công tác ở miền Nam.
Chọn lựa in một số tác phẩm của một vài tác giả
với nội dung không đụng chạm gì đến chế độ rồi hô hoán lên đó là văn học đô thị
miền Nam, ý đồ của họ là làm một công hai việc: vừa được tiếng là có tiến bộ, cởi
mở, nhưng đồng thời lại vừa biến Văn Học Miền Nam thành một thứ phụ gia của văn
học chính thống.
Nói về hoàn cảnh và lịch
sử, thì Văn Học Miền Nam diễn ra ở miền Nam vào thời điểm 1954-1975. Nhưng
nói về bản chất thì Văn Học Miền Nam là Văn Học Việt Nam.
Nó không là văn học 20 năm được dựng nên chỉ để
nhằm phục vụ một chế độ, mà nó tiếp nối văn học cổ điển, văn học tiền chiến, bảo
tồn văn học Nhân Văn Giai Phẩm và hòa nhập vào văn học thế giới hiện đại. Nó
không đô thị, không rừng núi, không nông thôn, không bắc, không nam… Nó bao
trùm nhiều mặt, không thể đánh lộn sòng với văn học một chiều, văn học nghị quyết.
Chọn lựa một vài ba tác giả, rồi lại chọn lựa
vài ba tác phẩm của họ để in ấn hay giới thiệu một chương chỉ có 20 trang trong
cuốn “Lược Sử Văn Học Việt Nam” vừa được xuất bản do Trần Đình Sử chủ biên, rồi
tuyên truyền rùm beng thì không thể là “sự trở lại tất yếu khách quan” của khoa
học lịch sử và đạo đức của Văn Học Miền Nam như Phạm Xuân Nguyên nói. Lại càng
không thể nào là “trở lại bình thường” của Văn Học Miền Nam với quần chúng như
phát biểu của Lại Nguyên Ân.
Chân dung nhà văn
Nhất Linh và cuốn sách của con trai Nguyễn Tường Thiết “Nhất Linh, Cha Tôi” được
nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam tái bản vào Tháng Bảy, 2020. (Hình: Nguyễn Vĩnh
Nguyên/Một Thế Giới)
Văn Học Miền Nam là một toàn thể. “Văn Học Miền Nam tồn tại,
hiện hữu và phát triển theo một quy cách chẳng khác gì văn học ở những quốc gia
tiên tiến trên thế giới. Đó là một nền văn học chứa đựng rất nhiều cái ‘có:’ có
bi, có hài, có tả, có hữu, có cổ điển, có hiện đại, có giải trí, có nhận thức,
có cao, có thấp, có cá nhân, có xã hội, có truyền thống, có quốc tế. Cũng như mọi
nền văn học khác, nó có mặt tích cực, có mặt tiêu cực. Dù phải sống trong chiến
tranh, phải chiến đấu để bảo vệ phần đất tự do, Văn Học Miền Nam phát triển. Đó
là một nền văn học không kêu gọi căm thù, không kêu gọi bạo động. Nền Văn Học
Miền Nam, vì tính chân thực của nó, không cần, không có gì phải đặt lại. Nó là
thế. Nó không thể khác.” (6)
Trong
tất cả những ý kiến phát biểu công khai về Văn Học Miền Nam, theo tôi, Vương
Trí Nhàn có một cái nhìn khá bộc trực. Theo ông: “Sở dĩ đôi lúc người ta khó
công nhận Văn Học Miền Nam là hình như họ nghĩ như thế này: tức là nếu công nhận
Văn Học Miền Nam thì [văn học] miền Bắc coi như là thua, là kém, là không ra gì
cả, thậm chí là hỏng, là vứt đi.” (7)
Do đó, chỉ có chuyện công nhận hay đánh phá,
trấn áp, khước từ chứ không hề có chuyện Văn Học Miền Nam ra đi hay trở lại.
Ngay cả những lúc bị đánh phá tơi bời ở miền
Nam, sách truyện, báo chí miền Nam vẫn được dân miền Nam thu giấu, giữ gìn đồng
thời tràn ra miền Bắc, thâm nhập vào trong hàng ngũ những người Cộng Sản và sau
này được dần dà phục hồi (và nối tiếp) ở hải ngoại.
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng phản bác, đối với
riêng bà, không có sự “trở lại,” mà là “trở về.” Thì “trở về” cũng chẳng khác mấy
với “trở lại.”
Tuy nhiên, tôi chịu phát biểu này của bà: “Tôi
vẫn sống như không bao giờ phải chết.” Đúng! Nếu nói cho rộng ra, Văn Học Miền
Nam vẫn sống như chưa bao giờ phải chết.
Nếu có hiện tượng trở lại thì không phải là sự
trở lại CỦA Văn Học Miền Nam, mà PHẢI LÀ sự trở lại VỚI Văn Học Miền Nam như-một-toàn-thể
của những nhà văn, nhà nghiên cứu văn chương trong nước bằng lương tri của người
cầm bút, thoát khỏi sự lệ thuộc vào một chủ thuyết vốn hoàn toàn xa lạ với bản
chất của văn chương. (Trần Doãn Nho) [qd]
---------------
Chú
thích:
(1) Tạm mượn chữ “nối dài” từ một nhóm từ của sử gia
Tạ Chí Đại Trường: “Việt Nam Cộng Hòa Nối Dài”
(2) Mời vào đường nối này để nghe “Vùng Đồi:”
http://123.30.141.4:8000/DOC%20TRUYEN%20THU%20SAU%209-4-21(VUNG%20DOI).mp3
(3) https://tranhoaithu42.com/2021/04/10/chuyen-la/
(4) “Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu: Nhà thơ Tô Thùy Yên
là bậc thầy của tiếng Việt,” xem báo Tuổi Trẻ ở địa chỉ https://tuoitre.vn/nha-nghien-cuu-nhat-chieu-nha-tho-to-thuy-yen-la-bac-thay-cua-tieng-viet-20210424220214909.htm
(5) “Nhìn nhận lại vai trò của văn học miền Nam
1954-1975,” xem báo Pháp Luật TPHCM ở địa chỉ
https://plo.vn/van-hoa/nhin-nhan-lai-vai-tro-cua-van-hoc-mien-nam-19541975-979724.html
và “Văn học miền Nam: Vượt thoát và trở về,”
xem báo Tuổi Trẻ ở địa chỉ
https://tuoitre.vn/van-hoc-mien-nam-vuot-thoat-va-tro-ve-20210420102305385.htm
(6) Phát biểu của Trần Doãn Nho tại hội thảo về Văn
Học Miền Nam, Tháng Mười Hai, 2014, tổ chức ở Orange County, California, Mỹ,
xem ở địa chỉ
https://damau.org/34977/tinh-van-hoc-trong-van-hoc-mien-nam
(7) “Văn Học Miền Nam 54-75 trong cách nhìn của
Vương Trí Nhàn hôm nay,” phòng vấn của Thụy Khuê cho chương trình Văn Học Nghệ
Thuật RFI, ngày 14 và 21 Tháng Sáu, 2008, đăng trên Blog Vuong Trí Nhàn, xem ở
địa chỉ
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009/04/van-hoc-mien-nam-54-75-trong-cach-nhin.html
====================================
XEM THÊM :
Tính
“văn học” trong văn học miền nam
23.12.2014
https://damau.org/34977/tinh-van-hoc-trong-van-hoc-mien-nam
(LTG: Đây là bản chính bài thuyết
trình trong buổi hội thảo về VHMN tổ chức tại tòa soạn nhật báo Người Việt vào
ngày 6/12/2014. Do giới hạn về thời gian, nhiều chi tiết trong bài viết đã
không được trình bày tại buổi hội thảo; và ngược lại, một số chi tiết được triền
khai khi phát biểu vốn không có trong bài viết.)
***
Đề tài tôi trình bày trong buổi hội thảo hôm
này là “Tính văn học trong văn học miền Nam”.
Chắc có người cho rằng chữ dùng nghe có vẻ
không mấy thích hợp. Và thừa. Đã nói về một nền văn học, sao còn đặt vấn đề
“tính văn học”?
Xin thưa ngay: lý do khiến tôi sử dụng nhóm từ
“tính văn học” là vì văn học miền Nam trước đây được nhà cầm quyền nhìn với một
nhãn quan chật hẹp và độc đoán. Họ gọi văn học miền Nam là “văn học thực dân mới”,
“văn học đồi trụy”, “văn học phản động” hay sau này, gọi một cách nghe lịch sự
hơn nhưng có vẻ xách mé, là “văn học đô thị”.[1] Toàn là những nhóm từ tiêu cực.
Văn học thực dân mới là gì? Là thứ văn học chỉ dành để phục vụ chế độ thực dân.
Văn học phản động là gì? Là chống lại đất nước, chống lại dân tộc. Văn học đồi
trụy là gì? Là hư hỏng, xấu xa. Vì thế, văn học miền Nam được xem là “nọc độc”.
Và những người viết lách được gọi là “những tên biệt kích văn nghệ.” Nghĩa là
gì? Nghĩa là phi-văn học. Là một nghịch đảo với văn học xã hội chủ nghĩa, văn học
yêu nước và văn học tiến bộ. Do cách hiểu hạn chế đó, nhà nước Cộng Sản đã tìm
cách tiêu diệt văn học nền văn học này sau chiến thắng tháng 4/1975.
Cách nhìn văn học miền Nam kể trên là một hình
thức định nghĩa văn học dựa vào lập trường chính trị của đảng Cộng Sản Việt
Nam. Tôi xin được bàn về văn học miền Nam bằng một cái nhìn khác, chung hơn,
“văn học” hơn, nghĩa là rộng rãi hơn, đa dạng hơn và tách ra khỏi cái nhìn phiến
diện, một chiều. Đó là tính cách văn học của một nền văn học.
Văn chương vốn là, nói như Hàn Dũ, “đại phàm vật
bất đắc kỳ bình, tắc minh” (vật nào cũng vậy, khi không được bình yên nên kêu).[2] Văn chương là tiếng
kêu của con người. Kêu là một cách bày tỏ cảm xúc trước sự vật, trước hoàn cảnh
và trước các biến cố nhân sinh. Nó gắn liền vừa với cá nhân, vừa với xã hội và
vừa với lịch sử. Nó mở. Văn học hiểu như tổng thế các sáng tác
văn chương của các nhà văn, nhà thơ diễn ra trong một giai đoạn hay thời kỳ nào
đó, cũng thế, nó mở. Có thể so sánh văn học với một khu rừng: rừng có nhiều loại
cây khác nhau với tính cách và số phận khác nhau. Chúng mọc, chúng ra lá, trổ
hoa muôn màu muôn vẻ. Tính văn học, do thế, muôn màu muôn vẻ. Nó được thể hiện
qua những đặc điểm sau:
· Về tác giả: tính tự do, tính khu biệt giữa
tác giả và tác phẩm.
· Về hình thức: tính kế tục, tính hiện đại và
tính đa dạng
· Về nội dung: tính nhân bản, tính hiện thực
và tính bi kịch.
Văn học miền Nam bao gồm tất cả những đặc điểm
trên. Trong phần khai triển sau đây, có một số điểm tôi chỉ nói sơ qua, vì đó
là những điều mà hầu như ai cũng đã rõ trong khi ở một số điểm khác, tôi sẽ bàn
kỹ. Mặt khác, do đề tài quá rộng, nên những chi tiết điển hình nêu ra trong bài
thuyết trình hầu hết chỉ đề cập đến phần sáng tác. Xin được đi từng điểm một.
I. Về tác giả:
1. Viết là một hành vi tự do:
Làm nhà văn, nhà thơ là một chọn lựa tự do.
Không ai bị buộc phải làm nhà văn, nhà thơ; không ai phải học để trở trở thành
nhà văn, nhà thơ. Viết là một hành vi tự đối diện với mình và với công chúng. Từ
kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy không có tự do thì không có cảm hứng để
sáng tác, dù nhìn dưới góc độ nào.
Với tư cách là những người viết tự do, những
nhà văn, nhà thơ miền Nam đã sáng tác không qua một sự chỉ đạo nào. Họ không ăn
lương nhà nước để viết và do đó, không sáng tác chỉ để phục vụ các nghị quyết
chính trị. Miền Nam không có “Hội nhà văn” với tư cách là một thứ quyền lực tối
cao chi phối mọi hoạt động sáng tác. Cũng không có trường viết văn và làm thơ.
Mỗi nhà văn, nhà thơ hay nhà biên khảo tự chọn lựa cách viết, chọn lựa xu hướng,
lựa đề tài cũng như chọn lựa tạp chí văn học để cọng tác. Một người có thể viết,
xin lấy một ví dụ, vừa cho tạp chí Khởi Hành (một tạp chí chống
Cộng) hay Văn, một tạp chí thuần túy văn học, nhưng đồng thời vẫn
có thể viết cho Trình Bày hay Đối Diện là những tạp chí tả khuynh. Chính vì thế
và nhờ thế mà văn đàn miền Nam luôn luôn sôi động. Nhiều hiện tượng văn học bất
ngờ xuất hiện làm ngạc nhiên văn giới và có trường hợp, làm rúng động cả văn
đàn. Trước chính biến năm 1963 lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, do chính sách kiểm
duyệt khá nghiêm khắc, nên văn giới còn phần nào dè dặt; nhưng sau năm 1963,
toàn xã hội như bùng vỡ. Cùng với những cuộc đảo chánh, xuống đường đòi hỏi tự
do, dân chủ, trên văn đàn, thơ, văn xuất hiện ồ ạt. Nói chung, hiện tượng đó có
cái gì xô bồ, đôi khi đi quá đà, nhưng mở ra một không gian rộng cho sự sáng tạo
văn chương, nghệ thuật.
Do viết là một hành vi tự do, nên văn học miền
Nam, tự bản thân, không nhằm bảo vệ chế độ, lại càng không làm công cụ cho chế
độ nơi nó được nuôi dưỡng. Một cây bút, trong hoàn cảnh và từ vị thế của mình,
nhìn hiện thực xã hội qua những lăng kính khác nhau, không ai giống ai. Mai Thảo
hồi tưởng về Hà Nội trước khi di cư vào Nam; Nguyễn Vỹ viết về “Tuấn, chàng
trai nước Việt’, một hồi ức về thanh niên thời thuộc địa; Nguyễn Thị Hoàng đột
ngột xuất hiện với “Vòng tay học trò” làm ngẩn ngơ cả một thế hệ; Nguyễn Đức
Sơn độc đáo và táo bạo với những bài thơ lạ trong “Đêm nguyệt động”; Bùi Giáng
trêu cợt cuộc đời bằng những câu lục bát “không giống ai”; Dương Nghiễm Mậu viết
về nỗi bất an của hiện sinh con người, chẳng hạn như một nhân vật trong “Niềm
đau nhức của khoảng trống”; Hoàng Ngọc Tuấn lại quay trở lại với thời nhỏ tuổi
mơ mộng với “Cô bé treo mùng”; Vũ Hạnh phê phán chế độ VNCH qua hình ảnh ẩn dụ
của một “Ngôi trường đi xuống”; Trịnh Công Sơn phản chiến với “Ca khúc Da
Vàng”; Phan Nhật Nam viết về đời lính nhọc nhằn qua những bút ký ngập ngụa khói
lửa chiến trường; Phạm Thiên Thư làm thơ ca ngợi tình yêu thời trẻ dại với hình
ảnh nhẹ nhàng của “em tan trường về/đường mưa nho nhỏ.” Vân vân và vân vân. Mỗi
nhà văn, nhà thơ tự chọn cho mình một cách thể hiện riêng, đôi khi rất riêng, về
thời cuộc, về cuộc sống.
Họ có thể là công chức làm việc cho nhà nước
hay khoát áo nhà binh. Trong công sở, họ có thể làm công tác tuyên truyền hay
ngoài chiến trường, họ đánh nhau với quân Cộng Sản, nhưng khi sáng tác thì sáng
tác như những nghệ sĩ tự do. Có thể tìm thấy trường hợp điển hình qua các tác
phẩm của những người lính. Những nhà văn, nhà thơ lính viết như những nhân chứng
sống trong chiến tranh. Đó không chỉ là những hồi tưởng muộn màng hay loại nỗi
buồn làm dáng như kiểu “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Nhiều truyện ngắn
hay thơ xuất hiện trên tạp chí Văn hay Bách Khoa hồi đó của những người lính
chiến như Trần Hoài Thư, Lê Bá Lăng, Y Uyên, Văn Lệ Thiên, Trần Dzạ Lữ, Luân
Hoán…như những bản tin chiến sự nóng bỏng. Có người viết ngay, viết thẳng trên
ba lô trong một trận hành quân hay trong lúc chiến trường mà họ dự phần hãy còn
nóng hổi mùi thuốc súng và tanh mùi máu của đồng loại. Viết xong, họ gửi ngay về
tòa soạn để đăng trong thời gian sớm nhất. Trong hành vi viết, họ vừa ở trong
chiến tranh lại vừa đứng ngoài nó. Vừa tham dự chiến tranh vừa đặt vấn đề và
thao thức về chiến tranh. Dù trực tiếp cầm súng, ngày đêm đối diện với quân
thù, nhưng tác phẩm của họ không viết ra để gây thêm căm thù mà bao giờ cũng là
một dấu hỏi về thân phận con người trong cuộc chiến. Hãy đọc thử một trích đoạn
trong “Nhật ký hành quân” của Trần Hoài Thư:
“Xin tha lỗi cho tôi, các bạn. Tôi không còn đủ sáng
suốt để sáng tạo câu văn ý lạ. Tôi đang nằm trong quân y viện
đây. Đêm buồn lắm. Đêm buồn lắm. Lính của tôi nằm nhiều trong
đó. Hai thằng nằm tại nhà vĩnh biệt. Hai thằng mất tích. Và những
thằng bị thương đang nằm ở đây. Đêm buồn lắm. Đêm buồn lắm. Ngày hôm đó,
ngày 9 tháng 5 thì phải. Mặt trời thì hừng hực lửa. Chỉ có mặt trời mới
thấy bọn tôi. Tôi nằm trong bụi, mặt dầm dề máu và đùi găm đầy miểng lựu đạn,
cả mông tôi cũng vậy. Tôi nhìn lên cao cầu khẩn Tổ Tiên Ông Bà, Nam Mô
Quan Thế Âm Lạy Trời Lạy Chúa. Nhìn mặt trời, cho con sống. Sống. Tôi
vùng dậy chạy. Đạn rít dưới chân. Đạn xẹt trên đầu. Tôi lộn
nhào. Lê lết. Bò trườn. Tôi nhào xuống bờ suối. Đạn đuổi theo. Nó
canh kỹ. Ló đầu ra. Tắc bùm. Thụt đầu vào. Chạy. Lăn.Tội
nghiệp thân thể mày chưa, Thư. Gầy ốm thế kia. Cha mẹ nưng niu bồng ẵm
nuôi con bây giờ ầm ầm, tạch đùng, bập bập bập, bò, hai cùi tay vấy máu, bò ngửa,
bò sấp, bò hai chân, bò hai tay. Bụi gai vừa xê dịch. Tắc
bùm. Đ.M, quân chó đẻ. Mày giết tao mày hả dạ lắm sao. Tao để
dành viên đạn cuối cùng. Tự sát.”[3] Văn của người lính Trần
Hoài Thư tươi, sống, đầy cá tính!
Nói như Jean-Paul Sartre, văn chương “là hành
vi, qua đó, trong từng khoảnh khắc, nhà văn tự giải thoát ra khỏi lịch sử,
nghĩa là hành xử sự tự do.”[4] Con người nhà văn lệ thuộc vào
hoàn cảnh nhưng viết là một hành vi giải thoát khỏi hoàn cảnh. Họ thể hiện cái
“tôi” tự do khi sáng tác. Bởi thế, những nhà văn, nhà thơ miền Nam không đánh mất
cái “tôi” khi viết. Họ không chờ đến khi biết mình sắp từ giã cõi đời, mới cố gắng
tìm lại “cái tôi đã mất” như Nguyễn Khải, một trong những nhà văn nổi tiếng miền
Bắc.[5] Chẳng thế mà Nguyễn Minh Châu
cay đắng vẽ ra chân dung điển hình của người cấm bút miền Bắc như sau: “Cũng
trong một người cầm bút, cái phần bất tài nhảy lên bục tao đàn để múa may, còn
cái phần tài năng thì trùm chăn chờ ngày xuống mồ! Con đường của một cây bút trẻ
hăm hở phấn đấu để trở thành nhà văn cũng là con đường phải giết đi cái phần
nhà văn trong con người mình, con đường tự mài mòn đi mọi cá tính và tính trung
thực trong ngòi bút.”[6]
2. Khu biệt tác giả ra khỏi tác phẩm:
Xem viết là một hành vi tự do, nên những tác phẩm
xuất phát từ sự tự do đều được văn học miền Nam trân trọng. Ngay từ thời Đệ Nhất
Cộng Hòa, người ta đã tách tác phẩm ra khỏi tác giả. Nghĩa là tác phẩm, một khi
thành hình, luôn luôn có số phận riêng của nó, không lệ thuộc vào người sáng
tác. Do đó, giá trị văn chương của nó không dựa trên lý lịch của tác giả. Tác
giả chỉ là một yếu tố và không phải là yếu tố chính trong trong nghiên cứu văn
học. Xuất phát từ quan điểm đó mà hầu hết các tác giả tiền chiến đều được
nghiên cứu và giảng dạy trong học đường, ngay cả khi họ là những đảng viên Cộng
Sản và đang hết mình tâng bốc cho lý tưởng Cộng Sản ở miền Bắc. Các tác phẩm của
Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Quang Dũng…đều được bảo tồn,
quý trọng và thậm chí, vinh danh. Chúng vẫn được nghiên cứu và giảng dạy một
cách bình thường y như những nhà văn, nhà thơ khác, không có bất cứ một sự phân
biệt đối xử nào. Ngoài ra, một số sáng tác của các nhà văn, nhà thơ trong thời
kháng chiến – nhất là trong giai đoạn trước năm 1951, khi người Cộng Sản chưa
dùng phong trào chỉnh huấn để loại bỏ những người không ủng hộ chủ nghĩa Cộng Sản
– cũng được giới thiệu trong các tạp chí văn học. Hai tác phẩm biên khảo về văn
học “Nhà văn hiện đại” của Vũ Ngọc Phan và “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh
được sử dụng và giảng dạy trong chương trình trung học. Bởi vì, như đã nói ở
trên, những tác phẩm này được viết ra trong khi họ là những con người tự do.
Thú thật, đến bây giờ, khi nhìn lại giai đoạn này, tôi vẫn ngạc nhiên về chính
sách rộng rãi này. Theo tôi, đây là một điểm son của văn học miền Nam.
Không những miền Nam bảo tồn các tác phẩm văn
chương tiền chiến mà còn lưu giữ và bảo tồn các tác phẩm của những nhà văn, nhà
thơ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm miền Bắc. Văn, thơ của Trần Dần, Phùng Quán,
Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Lê Đạt, Phùng Cung, Đặng Đình Hưng…bị đánh phá và
tiêu hủy ở miền Bắc, đã tìm thấy cuộc sống ở miền Nam. Xin nhấn mạnh, Miền Nam
chấp nhận chúng, không phải vì chúng chống Cộng – thực ra như chúng ta đều biết,
các tác phẩm của họ không hề chống Cộng – mà vì chúng là văn học. Chúng là sản
phẩm của hành vi viết tự do. Vả lại, độc giả miền Nam nói chung, chỉ thích đọc
những tác phẩm mang tính văn học và không thích hoặc khước từ đọc những tác phẩm
văn học có tính cách tuyên truyền, nhất là tuyên truyền chính trị.
II. Về hình thức:
1. Tính đa dạng:
Một nền
văn học không chỉ là một bông hoa, cũng không chỉ là vườn hoa, mà phải là một rừng
hoa. Nói đến rừng cũng là nói đến một cái gì dị tính. Văn chương, trong bản chất,
là dị tính. Nó không thể là một cái gì đồng nhất, đơn điệu. Văn chương phải phản
ảnh nhiều mặt của cuộc nhân sinh. Hiện thực phải được nhìn từ nhiều góc độ, nhiều
khía cạnh và nhiều nhãn quan khác nhau. Người ta không là “nhà văn để chọn lựa
nói về một số sự vật nào đó, nhưng chọn lựa nói về chúng bằng một cách nào đó,”[7] theo Sartre. Thành thử, cùng một
sự vật nhưng qua ngòi bút của mỗi nhà văn, nó xuất hiện khác nhau. Mỗi một tác
phẩm chỉ nhặt nhạnh một chi tiết nào đó, một khía cạnh nào đó của nó.
Văn học miền Nam hình thành trên tính cách đó.
Vì vậy, có thể nói, văn học miền Nam như một cánh rừng bạt ngàn. Nó dung chứa hết
thảy hình thức văn chương, từ bình dân đến cao cấp, từ hữu khuynh đến tả
khuynh, từ cổ điển đến hiện đại. Nhiều trào lưu, khuynh hướng chống đối nhau vẫn
cùng hiện diện. Trào lưu nào, khuynh hướng nào có độc giả của trào lưu và
khuynh hướng đó.[8] Mai Thảo có độc giả của Mai Thảo,
Lê Xuyên có độc giả của Lê Xuyên, Nguyễn Vỹ có độc giả của Nguyễn Vỹ, Nhất Linh
có độc giả của Nhất Linh, Nguyễn Thị Thụy Vũ có độc giả của Nguyễn Thị Thụy Vũ,
Lệ Hằng có độc giả của Lệ Hằng, Võ Hồng có độc giả của Võ Hồng, Duyên Anh có độc
giả của Duyên Anh, bà Tùng Long có độc giả của bà Tùng Long…Nội dung và đề tài
hết sức phong phú từ tình yêu, thân phận, những thao thức, dằn vặt cá nhân, ám ảnh
tình dục cho đến tệ nạn xã hội, hiện tượng tham nhũng, sự suy đồi đạo đức, sự
khao khát hòa bình, niềm mơ ước thống nhất. Sự đa dạng và mở khiến văn học miền
Nam xuất hiện nhiều hiện tượng văn học độc đáo, vẫn còn ảnh hưởng lâu dài về
sau. Hiện tượng thơ: thơ Nguyên Sa, thơ Thanh Tâm Tuyền, thơ Bùi Giáng, thơ
Nguyễn Đức Sơn, thơ Phạm Thiên Thư…; hiện tượng văn: văn Mai Thảo, văn Dương
Nghiễm Mậu, văn Lê Xuyên…; hiện tượng biên khảo: các tác phẩm của Phạm Công Thiện,
Bùi Giáng, Nguyễn Văn Trung, Nhất Hạnh…; hiện tượng nhà văn nữ: Nhã Ca, Túy Hồng,
Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị Ngh. Các nhà văn nữ không chỉ
táo bạo trong đề tài, cách xử lý cốt truyện và nhân vật, mà còn trong việc cách
tân ngôn ngữ. Họ mở ra một cánh cửa để nhìn vào thế giới nội tâm tuy đơn giản
bên ngoài nhưng lại vô cùng phức tạp, tinh tế bên trong của nữ giới, nhất là nữ
giới trong thời hiện đại.
Nói chung, không thời nào trong văn học nước
nhà mà tính cách riêng biệt của tác giả được thể hiện một cách sắc nét và độc
đáo như thời kỳ hai mươi năm văn học miền Nam. Thật khó mà lẫn lộn giữa thơ
tình Nguyên Sa mềm mại, bộc trực nhưng duyên dáng với thơ tình Phạm Thiên Thư
mang mang, tinh tế và trong suốt; giữa văn Võ Phiến chi li với văn Lê Xuyên dân
dã, tươi sống; hay giữa biên khảo văn học và triết lý Nguyễn Văn Trung mạch lạc,
khúc chiết với biên khảo văn học và triết lý của Tam Ích phong phú, lang mang
và đầy cá tính.
Tính đa dạng đó còn tìm thấy ở thành phần tác
giả. Nhà biên khảo Trần Thiện Đạo nhận xét về tờ Văn, một trong những tạp chí
văn học hàng đầu của miền Nam trước 1975, như sau: “…tạp chí Văn và
đặc san Tân văn qui tụ quanh mình hầu hết các văn gia và thức
giả ở miền Nam, kể cả những cán bộ nằm vùng. Đầy đủ mọi lập trường,
khuynh hữu có, lừng khừng có, khuynh tả có; đầy đủ mọi thế hệ, trẻ có, già có;
đầy đủ mọi tài năng, nghiệp dư có, chuyên nghiệp có; đầy đủ mọi chiều hướng, cổ
điển, lãng mạn, tả chơn, siêu thực, hiện thực, hiện sinh, hiện đại và nhiều thứ
khác nữa.”[9] Tính cách này không chỉ ở Văn
và Tân Văn mà cũng ở nhiều tạp chí văn học khác như Văn Học, Nghệ Thuật, Vấn Đề,
Khởi Hành.., qua đó, những Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Lương Thái Sỹ, Y Uyên,
Huỳnh Hữu Ủy, Nguyễn Chí Kham, Trần Doãn Nho, Phạm Ngọc Lư…là những cây bút ở
phía bên này cùng xuất hiện cùng với những Yên My (tức Trần Hữu Lục), Thái Ngọc
San, Mường Mán, Ngụy Ngữ, Tần Hoài Dạ Vũ hay Lê Văn Ngăn là những cây bút (thân
hay trực tiếp hoạt động cho) phía bên kia. Riêng về tạp chí Bách Khoa, Nguyễn
Hiến Lê ghi lại trong hồi ký của mình: “Tư tưởng chính trị của những cây viết
nòng cốt của Bách Khoa có khi trái ngược nhau: Vũ Hạnh thiên cộng, sau theo cộng.
Võ Phiến chống cộng. Đoàn Thêm, Phan Văn Tạo, không ưa cộng nhưng cũng không đả;
không thích Mỹ nhưng cũng không nói ra […] Tôi, có lẽ cả Nguyễn Ngu Ý và Lê Ngộ
Châu có cảm tình với kháng chiến […] Mặc dầu vậy, các anh em trong tòa soạn vẫn
giữ tình hoà hảo với nhau. Xu hướng phản nhau như Vũ Hạnh và Võ Phiến mà vẫn trọng
tư tưởng của nhau, ít nhất trong 10 năm đầu. Đó là điểm tôi quý nhất.”[10]
Nói đến sự đa dạng không thể không nói đến sự
xuất hiện của những tạp chí “tả khuynh”, nổi bật nhất là Đối Diện, Trình Bày,
Hành Trình và Đất Nước. Điều đáng lưu ý, cộng tác cho những tờ báo này không chỉ
là những người tả khuynh mà có đủ những khuôn mặt văn chương miền Nam khác, kể
cả những nhà văn có xu hướng chống Cộng. Theo Nguyễn Văn Lục, “Giữa Hành Trình
và Đất Nước, cộng sản như thể đang ở ngoài nhà, nay đã vào đến trong nhà, vào
buồng ngủ..của tờ báo. Nó lộ liễu và công khai quá. Nó không cần đeo mặt nạ.
Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy tên tuổi những Nguyên Sa, Luân Hoán, Du Tử Lê,
Nguyễn Tử Quý, Thảo Trường bên cạnh Ngô Kha, Ngụy Ngữ. Với cung cách lộn sòng
như thế này – không phân biệt tà-ngụy – cùng đứng chung, xếp hàng. Miền Nam
đang trải qua một mùa gió chướng và những cơn thử thách cuối cùng của một dòng
lũ triều cường có thể cuốn trôi và phá sạch tất cả.”
Là tả khuynh, nên một số sáng tác và bài biên
khảo trong đó gần như công khai chống Mỹ, chống chính quyền, chống chiến tranh.
Chẳng thế mà khi viết về các tạp chí này, Nguyễn Văn Lục viết: “Ở giai đoạn
chót của miền Nam, Trình Bày ngang nhiên xuất hiện, in ấn đàng hoàng, bất chấp
kiểm duyệt, bất chấp tịch thu báo.” (…) “Ở trong tình trạng này, thật khó xếp hạng,
thật khó biết ai là người quốc gia, ai là người bị cộng sản lợi dụng và ai là
người cộng sản thứ thiệt? Nếu cần tố cáo thì tố cáo ai nhỉ? Ai là người anh em
của ta, ai là kẻ thù?”[11]
Sự hiện diện của những tạp chí tả khuynh này
nói lên cái gì? Theo tôi, nó nói lên tính cách mở của văn học miền Nam. Chỉ có
trong khung cảnh của một xã hội mở mới có thể có những sản phẩm văn hóa “ngược
dòng” như thế. Về phương diện chính trị, sự hiện diện của chúng có cái gì như
trái cựa, nhưng hoàn toàn tự nhiên. Tuy có chính sách kiểm duyệt, nhưng nói
chung, chế độ miền Nam dành một số tự do tương đối rộng rãi, nên tiếng nói tả
khuynh vẫn có chỗ đứng.[12] (Vả lại, tả khuynh hiểu như một
xu hướng cải cách xã hội theo hướng tiến bộ của nhân loại chẳng phải là độc quyền
của riêng chỉ những người Cộng Sản hay thân Cộng). Không lạ gì, những người Cộng
Sản lợi dụng chúng để lũng đoạn chính quyền quốc gia. Dù chống Mỹ hay chống
chính quyền VNCH đến đâu mà không tuân phục đường lối duy nhất của đảng Cộng Sản
thì cũng đều không được chấp nhận. Vì thế, sau khi Cộng Sản chiếm được chính
quyền, tất cả các tạp chí nói trên đều bị đình bản và những người chủ trương
cũng như một số cây bút cộng tác chẳng những không được trọng dụng, mà thậm chí
có người còn bị làm khó dễ như Nguyễn Văn Trung, chủ bút tạp chí Hành Trình.
Riêng về tạp chí Đối Diện thì người chủ trương là linh mục Chân Tín và người cộng
tác mật thiết là giáo sư Nguyễn Ngọc Lan sau này trở thành những người bất đồng
chính kiến với chế độ.
Dẫu sao, xét riêng về khía cạnh văn chương,
thì sự hiện diện của các tạp chí này vẫn là nét đặc thù, nêu lên tính da dạng
trong văn học miền Nam.
2. Tính kế tục:
Văn học như một dòng sông, có nguồn có ngọn,
có trước có sau. Khác với văn học miền Bắc chỉ thu hẹp trong dòng văn học được
họ gọi là “cách mạng”, ‘tiến bộ” và “yêu nước” hiểu theo cách riêng của họ, văn
học miền Nam kế tục văn học truyền thống, qua văn học tiền chiến và kéo dài cho
đến văn học phát triển trong vùng quốc gia thời chiến tranh. Theo một nhận xét
khá xác đáng của Vương Trí Nhàn, trong lúc “Văn học miền Bắc trước năm 1975 đi
theo luật riêng”, “phủ nhận những kinh nghiệm của thời tiền chiến”, “gần như cô
lập”, chỉ biết có văn học Nga và Trung Hoa (mà ngay hai nước này lúc đó “cũng đứng
cô lập với thế giới”), thì văn học miền Nam “có sự nối tiếp những di sản cũ” và
“tiếp nhận một cách bình thường đối với ảnh hưởng nước ngoài.”[13] Tóm lại, miền Nam bảo lưu tất
cả sản phẩm văn học thuộc về mọi thời kỳ trước đó. Thử tưởng tượng: nếu không
có văn học miền Nam, văn học đất nước rốt cuộc sẽ chỉ thu tóm trong nền văn học
xã hội chủ nghĩa đơn điệu, thì thật là một thiệt hại lớn lao cho văn học Việt
Nam.
3. Tính hiện đại:
Tính hiện đại biểu hiện trên hai mặt, một là,
đáp ứng với những nhu cầu mới của thời đại và hai là, tiếp nhận và sử dụng các
thành tựu về tư tưởng, văn hóa và văn chương của thế giới.
– Sau 1954, sau một thời gian ngắn ngủi tạm sống
trong không khí văn học tiền chiến, văn học miền Nam trở nên sôi động và càng
ngày càng sôi động với trào lưu đổi mới. Khởi bằng Sáng Tạo, văn chương đột ngột
chuyển hướng để như hòa nhập với thời đại. Sự ra đời của Sáng Tạo, một mặt, là
nỗ lực đáp ứng với nhu cầu chuyển đổi của xã hội và cuộc sống và mặt khác là một
vượt thoát khỏi cái cũ, tìm ra cái mới nhằm mục đích đẩy nền văn học đi tới. Tiếp
sau Sáng Tạo, văn chương miền Nam như được đà, nổ bùng ra với nhiều cây bút mới
và những thử nghiệm mới. Đặc biệt là những cây bút trẻ. Họ đột ngột xuất hiện
trên vòm trời nghệ thuật với một nhân dáng mới, một bản lĩnh mới, tự tin vào
táo bạo. Văn đàn luôn luôn chuyển động và sôi động. Cái mới, cái lạ trên mọi
lãnh vực văn chương hầu như luôn sẵn sàng đâu đó, chỉ chờ cơ hội là bung ra.
– Mặt khác, nhờ sự tiếp cận với các trào lưu
và tư tưởng văn chương Tây Phương, văn học miền Nam được quốc tế hóa. Sự tiếp
nhận ảnh hưởng của văn chương quốc tế là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự đổi mới của văn học miền Nam. Các tư tưởng triết học mới tràn vào
và được thể nhập vào các sáng tác văn chương. Những băn khoăn siêu hình tìm thấy
không những trong các bài biên khảo mà còn tìm thấy trong thơ và trong văn. Thơ
Tô Thùy Yên chẳng hạn:
Ta gắng về sâu lòng quá vãng
Truy tầm mê mỏi lý sơ nguyên
Hỡi ôi, dọc dọc thấy câm cứng
Mặt trợn trừng chưa dứt ngạc nhiên
Hay các nhân vật trong truyện của Dương Nghiễm
Mậu hay Duy Thanh chẳng hạn.
Các trào lưu triết học mới đã giúp các nhà
văn, nhà thơ tạo nên nhưng nhân vật mới, mới toanh so với thời kỳ trước. Chúng
ta tìm thấy những nhân vật nổi loạn chống các định chế xã hội, chống lại số phận,
chống lại chính mình hay những nhân vật bị ám ảnh và bị thúc đẩy bởi những động
lực vô thức. Trong tác phẩm của các nhà văn nữ, ta cũng tìm thấy tính cách nổi
loạn như thế, nhưng ở một chiều hướng khác: bày tỏ mình và chống lại những định
kiến khắc nghiệt về thân phận phụ nữ trong xã hội Á đông. Nhân vật không chỉ là
một ai đó sống trong một khung cảnh nào đó, gặp những chuyện đời éo le nào đó,
mà còn là một con vật suy tưởng. Nó đặt vấn đề. Nó thao thức. Nó tra vấn về mình.
Thanh Tâm Tuyền phát biểu về nhân vật tiểu thuyết như sau:
“Phân biệt một tiểu thuyết cổ điển với tiểu
thuyết mới, người ta thường gán cho tiểu thuyết mới một tính chất phi lý, các
nhân vật bây giờ là phi lý. Sự thật, tiểu thuyết xưa mới phi lý, vì nhân vật tiểu
thuyết xưa thường sống trong một đam mê nào đó (passion). Mà đam mê là dẫn đến
phi lý. Nhân vật tiểu thuyết bây giờ sáng suốt quá, ý thức quá, không còn đam
mê. Người đọc gán cho chúng là phi lý vì sợ sự sáng suốt đó. (…) Tác giả nhập
vào ý thức nhân vật và sống trong đó. Nhân vật thì cô đơn, khắc khoải giữa cuộc
đời chưa thành hình. Nhân vật dần dần chỉ còn là hình bóng, hình bóng chỉ là tiếng
nói. Thí dụ: La Chute của Camus.”[14]
Chưa hết. Trong những truyện ngắn tiêu biểu
như “Người đạp xe vào thành phố buổi sáng”, “Thành phố dốc đồi”…của Hoàng Ngọc
Biên, nhân vật không những chỉ là hình bóng mà còn…biến mất. Chẳng những thế, cốt
truyện cũng biến mất theo. Hoàng Ngọc Biên là nhà văn đầu tiên thử nghiệm lối
viết mới của trào lưu “tân tiểu thuyết” (neauveau roman) xuất hiện ở Pháp với
những Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, Michel Butor.
Tóm lại, những nỗ lực không ngừng của các tài
năng của văn học miền Nam đã đưa văn học đất nước hòa nhập vào thời đại. Nó biến
văn học thành một dòng chảy liên tục, đi tới, đi tới…Nhưng, biến cố lịch sử
1975 đã chận đứng nó lại, phũ phàng. Tiếc thay!
III. Về nội
dung:
1. Tính nhân bản:
Tính nhân bản ở đây phải hiểu bằng một khái niệm
rộng hơn là khái niệm về đạo đức hay tình người. Với sự giúp đỡ của những trào
lưu triết học mới, nhà văn, nhà thơ có thể đi sâu hơn vào những khía cạnh ẩn dấu
của con người, về mặt ý thức, tâm lý cũng như về mặt tương quan xã hội. Văn học
miền Nam nói chung, trong quá trình phát triển của nó, đề cập đến con người như
một hiện sinh, một thân phận chứ không chỉ như một hữu thể chính trị và cũng
không chỉ như một hữu thể đạo đức, hiều theo nghĩa cổ điển. Do đó, ngoài những
tác phẩm đề cao tình người, đề cao tình gia đình, một số tác phẩm cũng đề cập đến
những ám ảnh tình dục, những ray rứt về phận người hay những vấn nạn triết lý về
đời người và người đời. Chẳng hạn như diễn tả nỗi cô đơn của con người khi chỉ
đối diện với chính mình trong “Một mình” của Võ Phiến; hay phân tích chi li cái
“chất đàn ông” chứa đựng trong một tay đàn ông chơi gái qua cái nhìn của một
gái điếm, trong “Đàn ông”, cũng của Võ Phiến; hay những dằn vặt về tình yêu và
tình dục trong một số các tác phẩm của Túy Hồng. Tóm lại, là săm soi con người
qua những tình huống và hoàn cảnh khác nhau.
Ngoài ra, trong những tác phẩm viết về chiến
tranh, tác giả không đề cập đến người lính như những kẻ chỉ biết “nhắm thẳng
quân thù mà bắn”. Ngược lại, hầu hết đều viết về những gian khổ của người lính
và những ray rứt của họ khi phải cầm súng bắn vào những người cùng máu mủ. Dù
chống Cộng, không có một tác phẩm văn chương nào kêu gào giết cho đến người Cộng
Sản cuối cùng. Chẳng những thế, có tác giả như nhà thơ Trang Châu, còn kêu gọi
một cuộc “chiến đấu không hận thù”:
trong cuộc chiến hôm nay
cho tôi xin chiến đấu không hận thù
xin những vết thương bình đẳng
cho tôi đổi một trăm chiến thắng
lấy một giọt nước mắt kẻ thù.[15]
Có thể nói, không giai đoạn nào mà văn học
mang đầy đủ tính cách “người” như hai mươi năm văn học Miền Nam. Có khóc, có cười,
có đau thương, có thống khổ, có vui mừng, phấn khởi, có lo âu, dằn vặt, thậm
chí có dâm, có loạn. Một nền văn học thể hiện con người trong tất cả cái phức tạp
của kiếp nhân sinh. Thay vì chỉ đề cập đến cái thiện, cái đẹp, người ta đề cập
đến cả cái ác, cái xấu. Thay vì dùng văn chương chỉ để “tải đạo”, người ta dùng
văn chương để lột trần những bề trái, những khía cạnh giấu ẩn, tăm tối, xấu xa
của con người. Có người bảo đó là một nên văn nghệ viễn mơ; có người cho là một
nền văn học đồi trụy. Tùy. Văn học là sản phẩm của tự do thì phê phán văn học
cũng tự do. Tùy cách thưởng thức, cách đọc, cách tiếp cận. Và cũng tùy điểm đứng,
tùy cách đánh giá về mặt đạo đức và cũng tùy quan điểm về văn học. “Tùy” cũng
còn ở chỗ: dở và hay.
2. Tính hiện thực:
Tác phẩm văn chương, dù bản chất là hư cấu,
không thể thoát khỏi sự ràng buộc vào hiện thực. Phản ảnh hiện thực vào tác phẩm
mức độ nào tùy thuộc vào nghệ thuật của từng tác giả. Văn chương miền Nam dường
như không giấu giếm điều gì. Nó hiện ra cách này hay cách khác qua những tác giả
và tác phẩm khác nhau. Nói cách khác, hiện thực được phản ảnh khác nhau qua từng
tác giả và từng tác phẩm. Ta có thể tìm thấy những ẩn ức tâm lý trong Võ Phiến,
những dằn vặt trong Dương Nghiễm Mậu thì cũng có thể tìm thấy những trang văn dịu
dàng về tình yêu tuổi nhỏ của Hoàng Ngọc Tuấn. Nếu ta có thể tìm thấy khung cảnh
thanh bình của một Sài Gòn vắng lửa đạn “Con đường Duy Tân cây dài bóng mát”,
“uống ly chanh đường, uống môi em ngọt” thì đồng thời cũng tìm thấy dấu vết của
một xã hội đang phân rã, ly tán:
Năm đọa đầy những đêm giới nghiêm
Năm đằng đẵng những ngày tuyệt thực
Năm máu chảy và năm ruột mềm
Năm bom đạn và năm bão lụt (Trần Dạ Từ)
Hiện thực chiến tranh đuợc diễn tả vô cùng sống
động ở nhiều tác giả, nhất là các tác giả khoát áo nhà bính. Khác với hình ảnh
“đường ra trận mùa này đẹp lắm” của những anh lính bộ đội, với người lính miền
Nam, chiến tranh mang một hình ảnh khác: tàn khốc.
Mùi tử khí theo khói đưa, lửa quyện
Xác phơi mình chờ đêm xuống mang đi
Bài vọng cổ. Trời ơi! Ai cất tiếng!
Xuống câu Xề nghe não nuột, lâm ly ! (Huy Văn)
Một đoạn của Văn Lệ Thiên trích từ “Trong lớp
khói mầu” về cái chết của một người bạn cùng đơn vị:
“Thới thả cây súng xuống đất. Người đứng
sau lưng kêu “trời”. Anh ta quăng một trái khói. Khói tỏa xanh đặc một khoảng,
che khuất Khắc, cái thùng rác và phần dưới cái cây bên đường. Chúng nó lại bắn
vào đám khói. Khắc được lôi vào, chỉ còn là cái xác. Nhưng cái xác đã bị thêm
hai viên đạn nữa. Trên lưng Khắc đóng rõ ba lỗ máu. Người can đảm trừng trừng
nhìn xác bạn, rồi tự vuốt mặt mình.”
Và buồn, rất buồn như ở Trần Dzạ Lữ:
Chiều Mai Lộc không mưa không nắng
lửa cháy trong hồn những kẻ đi xa
này anh lính nhỏ nhoi miền Bắc
giữa sương mù anh có nhận ra ta?
Đó là ngoài chiến trường. Còn ở chốn dân dã
thì sao? Đây là khung cảnh của một trường học ở vùng “xôi đậu” trong “Ngày về của
bọn họ” của Y Uyên:
“Thằng học trò trưởng lớp vẫn co ro trước cửa văn
phòng hiệu trưởng đợi Ngưỡng. Đầu nó chùm hụp một cái mũ nhà binh đã cũ. Ngưỡng
không hiểu nó thiếu khôn ngoan hơn mình hay bạo dạn hơn. Ngưỡng không bao giờ vứt
cái vỏ Quân tiếp vụ ở trường như trước kia vẫn vứt những vỏ Ruby. Chắc thằng bé
lại muốn xin thôi học. Buổi nào Ngưỡng cũng vỗ về chúng như một thông lệ cầu
nguyện: "Các em cứ gắng đi học, cuối năm thầy cho đậu hết". Nhưng sổ
điểm danh ngày nào cũng chạy dọc một cột dấu chữ thập. Có đứa vừa ra khỏi lớp học
vừa mếu máo, luẩn quẩn bên cửa sổ nhìn vào cả buổi, có đứa Ngưỡng nghe tin bị bắt
lên núi cả tháng mới thấy người nhà đến xin lại hồ sơ, có đứa nghỉ hôm trước,
hôm sau gửi cho thầy một lá thư đầy lỗi chính tả hẹn ngày "giải
phóng" cho thầy. Ngưỡng thay vì soạn bài đã lục trí nhớ chép lại những bản
nhạc của Phạm Duy đem dạy học trò. "Ngày trở về có anh thương binh chống nạng
cày bừa…"; "Từ ngày chinh chiến mùa thu…"; "Tôi yêu tiếng
nước tôi từ khi mới ra đời…". Lúc này, chỉ còn Phạm Duy mới dạy được chúng
nó. Nhưng chỉ dạy một bài ca, một câu nói về Phạm Duy, những đứa trẻ lại thấy
mình tách khỏi khối Việt Nam thảm họa, thấy mình một mình lo lắng trên đường về,
một mình thao thức chờ tiếng trống tựu để biết đã qua đêm. Không còn ai để cất
lời than chung với nó, chỉ có từng người hoang mang lẫn trốn.”
Trong truyện, tuy không có súng đạn, nhưng đầy
cả chiến tranh!
Xuất phát từ hiện thực, bây giờ đọc lại những
truyện ngắn hay thơ thời đó, dù cũ và dù cảm giác khác đi – cuộc sống hiện lên
vẫn rõ ràng, mồn một, sống động. Văn chương miền Nam ở đó, có quằn quại, đau đớn,
dằn vặt. Và cũng có cả hưởng thụ, vui chơi. Cuộc sống là thế, hiện thực là thế.
Đọc lại các tác phẩm miền Nam, Vương Trí Nhàn nhận xét: “Thì bức tranh về xã hội
chiến tranh như thế, tôi thấy rất nhiều trong các tác phẩm của các nhà văn miền
Nam, ở phần tốt nhất của họ, ở phần họ đúng là nhà văn, thì họ đã nói lên được
thực trạng xã hội, ở đấy, đọc thấy rõ hơn, và có cảm tưởng như trở lại không
khí của một đất nước, đã trải qua ba mươi năm quá đặc biệt.”
3. Tính bi kịch:
Một trong những thuộc tính của văn chương là
tính bi kịch. Không có tác phẩm văn chương nào không nói lên, đề cập đến hay
xây dựng bi kịch. Nói một cách khác, phải bi kịch hóa mới thành văn chương.
Sáng tạo văn chương là gì nếu không phải là sáng tạo bi kịch. Như chúng ta đều
biết, những tác phẩm văn chương lớn trong văn học nhân loại bao giờ cũng chứa đựng
tính chất bi kịch. Trong một xã hội bình thường thì bi kịch diễn ra nhẹ nhàng,
đơn giản và do đó, tính bi kịch trong văn chương cũng diễn ra nhẹ nhàng, đơn giản.
Như cái dửng dưng, buồn nản về quan hệ nam-nữ trong “Bonjour tristesse” (Buồn
ơi chào mi) của Francois Sagan chẳng hạn. Trong một xã hội nhiễu nhương, bi kịch
xã hội càng nhiều, càng lớn và do đó, bi kịch văn chương càng đa dạng và càng
sâu sắc.
Nói bi kịch, nghe trầm trọng. Thực ra, tính bi
kịch trong văn chương chẳng qua là đào xới và phân tích những mâu thuẫn, xung đột,
va chạm cũng như những nghịch lý phô bày hay tiềm ẩn trong con người và trong
cuộc sống. Tính bi kịch trong trào lưu văn chương đổi mới không phải chỉ là những
tình cảnh éo le, gay cấn hay ngang trái đời thường mà tìm thấy ở những cái vốn
chẳng có gì là gay cấn. Nhã Ca tìm thấy bi kịch ngay ở những chỗ trông ra ít bi
kịch nhất: nỗi buồn thời mới lớn.
Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh, em cũng tựa sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ.
Trong “Vòng tay học trò”, Nguyễn Thị Hoàng viết
về một điều “ngang trái”: tình yêu giữa cô giáo và cậu học trò. Trong “Yêu”,
Chu Tử cũng mô tả một điều “ngang trái” khác: tình yêu của “cô cháu” với “ông
chú” là bạn của ba. Trong “Tôi nhìn tôi trên vách”, Túy Hồng viết về sự xung đột
cá tính, địa phương, cũ-mới diễn ra trong gia đình.
Cơn khóc khởi đầu bằng những cái chớp mắt nhỏ, nỗi
buồn khởi đầu bằng tiếng thở dài ẩm ướt, cơn điên khởi đầu bằng những sợi thần
kinh hư, tôi thảng thốt nghĩ rằng tôi đang ở trong một cái ống, mở thoáng hai đầu
trông ra cuối trời mơ ước, cuối trời kỷ niệm. Tôi trông ra và tôi thúc thủ bó
tay.
Thảo rướm giọng:
“Lấy chồng đôi khi là một sự lỡ tay.” Trâm ngừng viết
ngửng đầu lên khôi hài:
“Lấy chồng là tự sát…” (Túy Hồng)
Túy Hồng đẩy những va chạm lặt vặt, thường
ngày thành bi kịch, bi kịch của cá tính và qua đó, bi kịch gia đình.
Đi sâu hơn và xa hơn, trong “Niềm đau nhức của
khoảng trống”, Dương Nghiễm Mậu đề cập đến nỗi khắc khoải của một người khi bị
mất đi một phần cơ thể, dù phần bị mất đi là cái bướu độc cần phải cắt bỏ:
“Thân thể anh còn đây, cái bướu đã mất. Anh
khước từ sự hiện diện vô ích của nó nên anh đã trở thành một sự không thực. Anh
chẳng còn gì ngoài cái thân thể đang dần dần nhiễm độc, ung thối ra cho những
sinh vật khác sinh sống. Anh là một sự không thực nằm đây – Sự quái gở bắt đầu
bay hơi ẩm mốc. Nhưng từ đó anh biết rằng anh là gì. Anh hơn đám đông vây
quanh, bởi anh ý thức được sự có anh, mọi người coi họ có mặt- nhưng là một sự
có mặt hư ảo, không thấy mình.”
Dương Nghiễm mậu đã biến một điều bình thường,
thậm chí vô nghĩa, thành bi kịch; ở đây là bi kịch thân phận, bi kịch hiện
sinh. Hay nói cho đúng, đây là một loại “bi kịch ý thức” vì trong truyện, “Tác
giả nhập vào ý thức nhân vật và sống trong đó,” theo cách phân tích của Thanh
Tâm Tuyền ở trên.
Bi kịch lớn nhất là bi kịch chiến tranh. Trong
20 năm, cuộc chiến trở thành bi kịch mẹ kéo theo vô vàn bi kịch con, tác động
trên cả chiều dài lịch sử và toàn thể xã hội và đi vào từng mảnh rời của số phận
cá nhân. Bi kịch hiện thực biến thành bi kịch văn chương. Khuôn mặt chiến tranh
được phản ảnh một cách sống động qua rất nhiều tác giả, nhất là những cây bút
nhà binh: Hồ Minh Dũng, Văn lệ Thiên, Thế Uyên, Nguyên Vũ, Vương Thanh, Lê Bá
Lăng, Luân Hoán, Nguyễn Nho Sa Mạc, Nguyễn Bắc Sơn, Mang Viên Long, Lữ Quỳnh,
Kinh Dương Vương…Nhiều, rất nhiều. Hầu hết đều mô tả sự tàn phá, đau khổ gây ra
bởi cuộc chiến nhưng mỗi tác giả có một cách nhìn khác nhau. Trần Hoài Thư, Lê
Bá Lăng, Vương Thanh dữ dội, sống động; Y Uyên điềm tĩnh, nhưng cay đắng; Văn Lệ
Thiên chừng mực, buồn bã. Nhiều truyện ngắn về chiến tranh khá độc đáo, đọc đã
lâu lắm rồi, vẫn còn đọng lại trong đầu óc, chẳng hạn như “Khu rừng mùa xuân” của
Vương Thanh hay “Đường kiến” của Kinh Dương Vương. Ngoài ra, một số tác phẩm mô
tả những bi kịch do sự hiện diện của quân đội nước ngoài. “Vành đai xanh”, bút
ký của Ngô Thế Vinh chẳng hạn, vừa bày tỏ thái độ không Cộng Sản, lại vừa bức
xúc về sự hiện diện của lính Mỹ ở đất nước.
Có lẽ truyện ngắn “Người đàn bà mang thai trên
kinh Đồng Tháp” của Thảo Trường biểu trưng cho cái bi kịch chiến tranh, hay nói
đúng hơn, bi kịch Quốc Cộng ở mức độ đáng xem là “bi kịch” nhất.
“Thời gian này chị Tư quên đi mất hình ảnh
anh Tư, vì chị Tư đã được sống lại những cảm giác khoái lạc đến hỗn độn với anh
binh sĩ truyền tin và “chú” em trai cán bộ. Chị giãy giụa trong những niềm hoan
lạc tràn ngập đó. Cuối cùng, đến một hôm, cái thai trong bụng chị máy động. Cái
máy động thứ nhất làm chị bàng hoàng. Chị tự hỏi “nó”là của ai? Của anh cán bộ
hay anh binh sĩ truyền tin? Chị thẫn thờ cả người và chị muốn rời ngay cái chốn
đó. Chị tự hỏi của ai? Chị muốn biết của ai? Cái thai của ai cũng được nhưng chị
phải biết chắc là của người nào. Lúc này chị lại nghĩ tới anh Tư dữ dội. Và chị
Tư bỏ dở công tác binh vận. Chị trở về căn nhà xiêu vẹo ở ven bờ kinh. Chị khóc
ròng vì không biết cái thai của ai.”
Của ai? Thật khó có câu trả lời rõ ràng. Mà
ngay có câu trả lời, bi kịch ở đây vẫn nguyên vẹn là bi kịch. Tóm lại, bi kịch
của một cuộc chiến tranh tương tàn. Của một bế tắc. Một cùng đường. Nhưng xin
lưu ý: nêu lên bi kịch không phải là chấp nhận bi kịch. Ngược lại, bi kịch ở
đây chính là sự thao thức, một thao thức lớn. Tuy thu tóm trong hình ảnh của một
người phụ nữ, câu hỏi “của ai?” hàm chứa một thao thức về phận người, phận nước,
về vận người, vận nước, về chiến tranh và hòa bình. Và về tương lai.
Người Cộng Sản không cho phép có cái “bi”
trong sáng tác văn chương. Tuy nhiên, một nhà văn Cộng Sản, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
sau bao nhiêu năm chỉ biết ca ngợi những niềm vui, thú nhận: “Ba chục năm nay
ta chỉ ủng hộ niềm vui, chỉ cho phép in thơ nói niềm vui. Nhưng nỗi buồn là cả
một tài sản tâm hồn của con người mà ta hãy còn đóng cửa đối với nó.”[16]
Văn học miền Nam là một nền văn học được nói
lên nỗi buồn, được dựng nên bi kịch. Xoáy sâu vào bi kịch là một cách vượt qua
bi kịch, theo tôi.
Phần kết
Theo thời gian, một số nhà văn, nhà phê bình
văn học trong nước có cái nhìn tỉnh táo hơn. Xét về khía cạnh lịch sử, văn học
miền Nam “là một phần không thể tách rời của văn học dân tộc,” theo Nguyễn thị
Thu Trang. Cũng theo nhà nghiên cứu này, “Diễn trình văn xuôi đô thị miền Nam
trong hai mươi năm không thẳng một đường, hướng tới một đích như văn học Cách mạng
mà quanh co, biến hóa khác thường…”[17] Trong tất cả những ý kiến phát
biểu công khai về văn học miền Nam, theo tôi, Vương Trí Nhàn có một cái nhìn bộc
trực nhất về nền văn học mà một thời bị nhà cầm quyền tìm cách tiêu diệt. Vương
Trí Nhàn nhận xét: “Văn học miền Nam nối tiếp truyền thống văn học của Nguyễn
Du, của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm, của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, mảng nói về
những đau khổ của con người và sự bơ vơ, khó khăn, bất lực, không biết đi lối nào
trong đời sống này và cả tính bi thương, đau đớn của con người. Mảng đó tôi thấy
rõ ở Văn học miền Nam đầy đủ hơn.” Nhưng tại sao văn học miền Nam vẫn bị phân
biệt đối xử? Trả lời cho câu hỏi này, nhà phê bình Vương Trí Nhàn nói thẳng: “Sở
dĩ đôi lúc người ta khó công nhận Văn học miền Nam là hình như họ nghĩ như thế
này: tức là nếu công nhận Văn học miền Nam thì [văn học] miền Bắc coi như là
thua, là kém, là không ra gì cả, thậm chí là hỏng, là vứt đi. Tôi nghĩ
"cách nghĩ chỉ có một [nền văn học] thôi" là không phải, vì như vậy sẽ
gây ra nhiều rắc rối trong việc tiếp cận nhau. Tôi cho rằng chúng ta có cả hai
[nền văn học], và hai bên bổ sung cho nhau. Tôi nghĩ độ một trăm năm sau, nếu
muốn nhìn lại xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, muốn hiểu con người sống như
thế nào thì cần phải đọc cả hai. Nền văn học miền Bắc, tôi tạm gọi là văn học của
chiến công, nền văn học lôi cuốn người ta đi vào cuộc chiến tranh, còn nếu nói
có những trang sách nào diễn tả được con người trong chiến tranh thì tôi thấy
nó rõ trong phần văn học miền Nam.”[18]
Tôi ghi nhận một hiện tượng khá đặc thù: sự biến
mất một số các sách biên khảo phê phán một chiều văn học miền Nam trước đây.
Trên mạng, hầu như không còn một bài viết nào của Trần Trọng Đăng Đàn, Lữ
Phương, Phong Hiền – những tác giả một thời phê phán và lên án một cách mạnh mẽ
văn chương miền Nam. Trong khi đi tìm tài liệu để viết bài thuyết trình này,
tôi vào Google, gõ các nhóm chữ như “văn chương thực dân mới” hay “văn học đồi
trụy, phản động…để chỉ thấy một số đường kết nối vào tên tác giả hay tên tác phẩm,
nhưng không tìm thấy gì. Chúng như những ngôi nhà bỏ hoang. Tóm lại, tôi không
thể tìm thấy bất cứ một bài viết nào, dù ngắn, dù dài lên quan đến “văn học thực
dân mới” hay “văn học phản động” vốn là những đề tài thời danh ngày nào. Tất cả
dường như đã bị rút xuống.
Nhà phê bình Thụy Khuê đưa ra những điều cụ thể
hơn: “Cuốn sách của Lê Đình Kỵ được viết với chủ đích “lột trần bộ mặt của nền
văn hóa Mỹ Ngụy” tương tự như trường hợp Đỗ Đức Hiểu viết cuốn “Phê phán văn học
hiện sinh chủ nghĩa” (nxb Văn học Hà Nội, 1978). Điểm chung của hai cuốn sách
này là trình bày, phân tích, và đả phá đối tượng giới thiệu; nhưng về sau, cả
hai tác giả đều gạt chúng ra khỏi danh sách những tác phẩm của mình. Trong câu
chuyện riêng với chúng tôi năm 1993, nhà phê bình Đỗ Đức Hiểu không muốn nhắc đến
cuốn “Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa”. Nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ cũng
không đưa cuốn “Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ Nguỵ” vào phần tác phẩm đã
in của mình, trong các bộ “Nhà văn Việt Nam hiện đại” và “Từ điển văn học”. Có
thể nói đó là một sự từ chối tác phẩm rất đặc biệt, không do lệnh trên mà phát
xuất tự lương tâm người trí thức.”[19]
Nhìn chung, văn học miền Nam tồn tại, hiện hữu
và phát triển theo một quy cách chẳng khác gì văn học ở những quốc gia tiên tiến
trên thế giới. Đó là một nền văn học chứa đựng rất nhiều cái “có”: có bi, có
hài, có tả, có hữu, có cổ điển, có hiện đại, có giải trí, có nhận thức, có cao,
có thấp, có cá nhân, có xã hội, có truyền thống, có quốc tế. Cũng như mọi nền
văn học khác, nó có mặt tích cực, có mặt tiêu cực. Dù phải sống trong chiến
tranh, phải chiến đấu để bảo vệ phần đất tự do, văn học miền Nam phát triển. Đó
là một nền văn học không kêu gọi căm thù, không kêu gọi bạo động. Nền văn học
miền Nam, vì tính chân thực của nó, không cần, không có gì phải đặt lại. Nó là
thế. Nó không thể khác.
Nếu văn học miền Bắc là đơn nhất, là một khối,
một tảng và là một công cụ hữu hiệu bảo vệ chế độ thì ngược lại, văn học miền
Nam là một thứ kính vạn hoa. Nó soi rọi từng chân dung, từng ngóc ngách của cuộc
sống, của từng số phận, từng hoàn cảnh. Do đó, nó không – hoặc khó – trở thành
công cụ của nhà cầm quyền; không những thế, trong rất nhiều trường hợp, lại là
một đối trọng với nhà cầm quyền. Cũng như giòng sông, nó chảy; cũng như cánh rừng,
nó mọc, nó ra lá trổ hoa. Đó là một nền văn học mà sau lưng không có nghị quyết
và trước mặt không có kẻ thù. Nó tự nhiên như nhiên. Như một con chim thả bay
ngoài trời hay những bông hoa nở ngoài đồng nội.
Có lẽ không ai trong chúng ta không khỏi cảm
thấy ngậm ngùi khi cho rằng miền Nam đã thất bại một phần chỉ vì đã sản sinh và
thủ đắc một nền văn học phong phú và đa dạng như thế. Nhưng mặt khác, nhờ thế
mà hôm nay, dù bị trù dập cách này hay cách khác, nó vẫn cứ tồn tại. Tồn tại bởi
từ chính nội lực của nó, chứ không bởi một ngoại lực nào. Nhờ vào đâu? Dạ thưa,
nhờ vào “tính văn học”. Nó văn học nên nó dính liền với cuộc sống. Hay nói cách
khác, vì dính liền với đời sống nên nó là văn học. Nó văn học nên nó tồn tại.
Và phải tồn tại.
Xin
được kết luận: Văn học miền Nam là văn học Việt Nam. Vì nó không những phát triển
theo chiều hướng riêng của nó, mà còn bảo lưu văn học cổ điển, văn học tiền chiến,
những tác phẩm văn học khác trước 1954 cũng như các tác phẩm của Nhân Văn Giai
Phẩm!
Có quý vị ngờ rằng tôi nói quá. Một cách nói
thậm xưng. Không. Chỉ xin vận dụng một chút tưởng tượng, một chút thôi: giả sử
như bây giờ đột nhiên văn học miền Nam biến mất, tất cả đều bốc thành khói bay
vào hư không, thì sự nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung sẽ gặp khó khăn như
thế nào.
Xin cám ơn quý vị.
Trần Doãn Nho
(12/2014)
----------
Ghi Chú:
[1] Văn học các đô thị miền Nam (1954–1975), tên gọi một giáo trình về
khoa ngữ văn, Đại học Đà Lạt
[2] Đại phàm vật bất đắc kỳ bình tắc minh, thảo mộc chi vô thanh,
phong nhiễu chi minh, thủy chi vô thanh, phong đãng chi minh…(Đại phàm vật nào
cũng vậy, không được bình yên thì kêu. Cỏ cây vốn không có âm thanh, gió thổi mới
kêu; nước kia không có âm thanh, gió xô nên kêu…) Hàn Dũ (đời Đường) Tống Mạnh
Đông Dã tự. (Trích từ Khâu Chấn Thanh/Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung
Quốc. NXB Văn Học, 1992, Mai Xuân Hải dịch.)
[3] Trích Nhật Ký Hành Quân, Trần Hoài Thư, Văn số
114, tháng 9 năm 1968
[4] Jean-Paul Sartre, Qu’est ce que la littérature?,
Éditons Gallimard, Paris, 1948, tr. 111, 112. “La littérature (…) est le
mouvement par lequel, à chaque instant, l’homme se libère de l’histoire : en un
mot, c’est l’exercice de la liberté.” Bản điện tử:
http://disciplinas.stoa.usp.br/pluginfile.php/67143/mod_resource/content/1/Sartre%20-%20Quest-ce%20que%20la%20litterature.pdf
[5] Nguyễn Khải, Đi tìm cái tôi đã mất, tùy bút chính trị.
Có thể xem ở:
http://www.viet-studies.info/NguyenKhai_DiTimCaiToiDaMat.htm
[6]Dẫn theo Nguyễn Hưng Quốc, Văn học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản
1954-1990, nxb Văn Nghệ, California, 1996, NHQ, tr. 50,51.
[7] Jean-Paul Sartre, sđd, tr. 30.
[8] Xin ghi lại đây một nhận xét của Nguyễn Thị Thu Trang: “Đi qua những
thành kiến cực đoan cá nhân, những xung đột về chính trị, những cuộc tranh luận
sôi nổi về vấn đề truyền thống và hiện đại, những biến hóa nhiều chiều của văn
chương đương thời…, tác phẩm của nhiều nhà văn như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ
Hồng, Trang Thế Hy, Nguyễn Văn Xuân, Minh Quân… viết ở thập niên 50, 60 trong
lòng đô thị miền Nam vẫn còn được nhiều người yêu thích. Điểm chung nhất và là
chỗ dựa vững bền của nó là hướng đến những giá trị văn hóa dân tộc, là bản sắc
văn hóa mỗi vùng miền và tình yêu quê hương chân thành, tha thiết. Họ làm thành
một dòng chảy riêng, không tách biệt nhưng cũng không nhập cuộc vào những trào
lưu khác vẫn thường được coi là thịnh hành đương thời như "hiện
sinh", "phân tâm", "ý thức"… Từ tác phẩm của những nhà
văn có kiểu viết rất "truyền thống" và "cổ điển" này, người
đọc có thể nhìn thấy bức tranh đa dạng của văn hóa miền Nam những năm trước
1975, những sự kiện làm đổi thay đời sống văn hóa, đặc biệt là đời sống tinh thần
của người dân.” (Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975/Tạp
chí Nghiên cứu văn học số 5/2007- vienvanhoc.org.vn)
[9] Trần Thiện Đạo, Chứng từ tạp chí Văn trong lòng độc giả,
Văn chương Việt. Xem ở:
http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15139
[10] Nguyễn Hiến lê, Đời viết văn của tôi, nxb Văn Nghệ,
Cali 1986, trang 143.
[11] Nguyễn Văn Lục, Diện mạo văn hóa, văn học miền Nam trong
những tình thế cực đoan lại là nơi hội tụ của bốn dòng chảy văn hóa-văn học, Đàn
Chim Việt, 3/11/2013. Xem ở:
[12] Theo Nguyễn Văn Trung, dưới chế độ VNCH, “Báo thì không phải kiểm
duyệt nhưng có thể bị tịch thu đưa ra toà. Trong khuôn khổ chính sách hạn chế tự
do chính trị như vậy, nếu không xuất bản công khai, hợp pháp, vẫn có thể in
ronéo, phổ biến, bày bán ngay cả trên các sạp báo và có thể bị tịch thu… Người
cầm bút viết những điều cấm kỵ, phê phán chính sách này, chính sách kia của nhà
nước, thậm chí họp nhau viết kháng thư phản đối, đăng trên báo mà không lo ngại
về an ninh chính trị của bản thân gia đình bạn bè. Nói cách khác, viết phê phán
mà không sợ nhà nước.” ( Trích từ Hướng về Miền Nam Việt Nam, Khởi
Hành số 92, tháng 6/2004). Dẫn theo Thụy Khuê, Văn Học miền Nam
1954-1975. Xem ở: http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-hoc-mien-nam/
[13] Vương Trí Nhàn, Văn học miền Nam trong cách nhìn của
Vương Trí Nhàn hôm nay, phòng vấn của Thụy Khuê. Blog Vuong Trí Nhàn. Xem ở:
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009/04/van-hoc-mien-nam-54-75-trong-cach-nhin.html
[14] Nxb Sáng Tạo, Tủ sách Ý Thức, 95B Gia Long, Sài Gòn. Bìa của Duy
Thanh. Ấn vụ Lam Giang Ấn Quán Sài Gòn. Bản quyền của nhà xuất bản Sáng Tạo,
Sài Gòn, 1965.
Xem ở: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9064&rb=08
[15] Trang Châu, Bên bờ Kinh Sáng 17-2-67, trong tập “Dấu
vết chiến tranh”
[16] Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tạp chí “Văn Nghệ” số tháng 12/1988. Dẫn
theo Nguyễn Hưng Quốc, sđd, tr. 251.
[17] Nguyễn Thị Thu Trang, bài đã dẫn.
[18] Vương Trí Nhàn, bđd.
[19] Thụy Khuê, Văn Học miền Nam 1954-1975. Xem ở: http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-hoc-mien-nam/
No comments:
Post a Comment