Bài
học lịch sử về tình hình kinh tế – xã hội hậu đại dịch
Nguyễn Thanh Hải
biên dịch
01/05/2021
http://nghiencuuquocte.org/2021/05/02/bai-hoc-lich-su-ve-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-hau-dai-dich/
Vào đầu những năm 1830, đại dịch tả gây ra thiệt
hại nặng nề cho nước Pháp. Chỉ trong vòng một tháng, nó đã cướp đi sinh mạng của
gần 3% dân số thủ đô Paris, các bệnh viện rơi vào tình trạng quá tải và các bác
sĩ thì lúng túng trước căn bệnh mới này. Đại dịch chấm dứt đã thúc đẩy sự phục
hồi kinh tế với việc Pháp theo chân Anh bước vào kỷ nguyên cách mạng công nghiệp.
Nhưng đối với những ai đã đọc tác phẩm Les Misérables (Những người khốn khổ)
thì sẽ biết rằng đại dịch này cũng góp phần thúc đẩy một cuộc cách mạng khác.
Người nghèo trong thành phố, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong đại dịch,
tỏ ra rất bất bình với thành phần giàu có, những kẻ chỉ biết trốn chạy về các
vùng quê để tránh lây nhiễm bệnh. Pháp lâm vào vòng xoáy bất ổn chính trị suốt
nhiều năm sau đó.
Ngày nay, trong khi Covid-19 vẫn hoành hành ở
những nước nghèo thì các quốc gia giàu có đang đứng trước ngưỡng của một đợt
bùng nổ kinh tế hậu đại dịch. Khi việc tiêm chủng đã phát huy tác dụng, số ca
nhập viện và tử vong do Covid-19 đều giảm, chính phủ các nước đang dỡ bỏ lệnh
cách ly tại nhà và nới lỏng những quy định về giao tiếp nơi công cộng. Nhiều
chuyên gia dự báo cho rằng nền kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng khoảng 7% trong năm
nay, nhanh hơn khoảng 5 điểm phần trăm so với xu hướng trước đại dịch chỉ hơn
2%. Các quốc gia khác cũng có tốc độ tăng trưởng nhanh đáng kinh ngạc (xem biểu
đồ 1). The Economist đã phân tích dữ liệu GDP của các nền kinh
tế G7 từ năm 1820 và thấy rằng sự tăng trưởng nhanh một cách đồng bộ như vậy là
rất hiếm khi xảy ra nếu nhìn vào xu hướng chung. Lần gần đây nhất người ta thấy
hiện tượng này là trong thời kỳ bùng nổ hậu thế chiến những năm 1950.
https://www.economist.com/img/b/300/327/90/sites/default/files/20210501_FNC026.png
Biểu đồ 1: Tốc độ
tăng trưởng GDP trung bình trong giai đoạn 2016-2019 (xanh nhạt) và dự báo tăng
trưởng năm 2021 (xanh đậm) của các nền kinh tế G7.
Tình hình khác thường hiện tại khiến các nhà
kinh tế khá bối rối và họ phải lật lại lịch sử để hiểu những gì sẽ xảy ra tiếp
theo. Các ghi chép cho thấy rằng, sau những thời kỳ gián đoạn phi tài chính lớn
như chiến tranh hay đại dịch, GDP có xu hướng phục hồi trở lại. Bên cạnh đó, nó
còn cho chúng ta thêm ba bài học nữa. Thứ nhất, trong khi mọi người muốn ra
ngoài và chi tiêu thì sự không chắc chắn hay bấp bênh vẫn sẽ tồn tại trong một
thời gian. Thứ hai, đại dịch thúc đẩy người dân và doanh nghiệp thử nghiệm những
phương thức sản xuất mới, có thể làm đảo lộn cấu trúc của nền kinh tế. Thứ ba,
như tác phẩm Les Misérables đã đề cập, những biến động chính trị thường xảy ra
sau đó với hậu quả kinh tế khó lường.
Trước tiên là xét đến việc chi tiêu của người
tiêu dùng. Dữ liệu từ những đại dịch trước cho thấy rằng trong giai đoạn nguy cấp,
phản ứng của mọi người giống như những gì đã diễn ra trong năm vừa qua khi
Covid-19 hoành hành: tích lũy tiền khi các cơ hội chi tiêu biến mất và việc đầu
tư gặp nhiều rủi ro. Trong nửa đầu những năm 1870, khi dịch bệnh đậu mùa bùng
phát, tỷ lệ tiết kiệm của các hộ gia đình ở Anh đã tăng gấp đôi. Vào thời điểm diễn
ra Thế chiến I, tỷ lệ tiết kiệm ở Nhật Bản cũng tăng hơn hai lần. Giai đoạn
1919-1920, đợt bùng phát của dịch cúm Tây Ban Nha, người Mỹ đã tích trữ nhiều
tiền mặt hơn bất kỳ giai đoạn nào sau đó cho đến tận Thế chiến II. Khi chiến
tranh nổ ra, một lần nữa tiết kiệm lại tăng lên, các hộ gia đình tích lũy thêm
số tiền trong giai đoạn 1941-1945 trị giá khoảng 40% GDP.
Lịch sử cũng cho chúng ta thấy những gì mọi
người sẽ làm khi cuộc sống trở lại bình thường. Chi tiêu tăng lên khiến cho thị
trường lao động phục hồi, nhưng không có nhiều bằng chứng về việc chi tiêu quá
mức. Quan niệm phổ biến cho rằng mọi người thường ăn mừng sự chấm dứt của Cái
chết đen bằng “việc thác loạn” và “ăn chơi quá độ”, như quan điểm của một số
nhà sử học, (có lẽ) là không đúng. Những năm 1920 đã không còn nghe thấy tiếng
reo hò ăn mừng nữa, ít nhất là vào giai đoạn đầu. Trong đêm giao thừa năm 1920,
khi mối đe dọa từ dịch cúm Tây Ban Nha đã lùi vào dĩ vãng, “đại lộ Broadway và
quảng trường Thời Đại trở lại giống như ngày trước hơn”, theo một nghiên cứu, mặc
dù cảm giác về “một quốc gia ốm yếu và mệt mỏi” vẫn bao trùm khắp nước Mỹ. Một
bài báo gần đây của ngân hàng Goldman Sachs ước tính rằng trong giai đoạn
1946-1949, người tiêu dùng Mỹ chỉ chi khoảng 20% số tiền tiết kiệm dư thừa của
mình. Khoản chi tiêu tăng thêm đó chắc chắn đã thúc đẩy sự bùng nổ kinh tế sau
chiến tranh, dù vậy các báo cáo “tình hình kinh doanh” hàng tháng của chính phủ
vào cuối những năm 1940 vẫn chứa đầy nỗi lo về sự suy giảm sắp xảy đến (và thực
tế là nền kinh tế đã đi vào suy thoái trong giai đoạn 1948-49). Lượng bia tiêu
thụ đã giảm trong những năm đó. Hành vi thận trọng của người tiêu dùng có thể
là một lý do giải thích việc rất ít bằng chứng lịch sử cho thấy đại dịch đã làm
lạm phát gia tăng. (xem biểu đồ 2)
https://www.economist.com/img/b/300/346/90/sites/default/files/20210501_FNC029.png
Biểu đồ 2: Mức biến
động của giá cả hàng hóa (%) những năm trước và sau chiến tranh (xanh nhạt) và
đại dịch (xanh đậm).
Bài học lớn thứ hai mà ta biết từ sự bùng nổ
kinh tế sau đại dịch liên quan đến “phía cung” của nền kinh tế – hàng hóa và dịch
vụ được sản xuất như thế nào và ở đâu. Mặc dù nhìn chung mọi người dường như ít
quan tâm đến các thú vui tiêu khiển sau đại dịch, một số người vẫn sẵn sàng thử
những cách kiếm tiền mới. Các nhà sử học tin rằng Cái chết đen đã khiến người
châu Âu thích phiêu lưu mạo hiểm hơn. Khi mà ở quê nhà đã có rất nhiều người chết
thì việc chất đồ đạc lên một con tàu và ra khơi đến những vùng đất mới dường
như ít rủi ro hơn. Apollo’s Arrow – Mũi tên của thần Apollo, một cuốn sách ra mắt
gần đây của tác giả Nicholas Christakis thuộc Đại học Yale, cho thấy rằng sau đại
dịch cúm Tây Ban Nha là “sự gia tăng của các hoạt động chấp nhận rủi ro”. Thật
vậy, một nghiên cứu của Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Hoa Kỳ (NBER) công bố
vào năm 1948 cho thấy rằng số lượng các công ty khởi nghiệp đã bùng nổ kể từ
năm 1919. Ngày nay, tại những quốc gia giàu có, số doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới một lần nữa lại bùng lên khi các doanh nhân tìm cách lấp đầy khoảng trống
trên thị trường.
Một số nhà kinh tế khác thì rút ra được mối
liên hệ giữa đại dịch và một thay đổi khác ở phía cung của nền kinh tế: việc ứng
dụng công nghệ để giảm thiểu số lao động. Chủ doanh nghiệp có thể muốn hạn chế
sự lây lan của dịch bệnh và các robot thì không bao giờ bị ốm. Các chuyên gia tại
IMF đã tiến hành nghiên cứu một số đợt bùng phát dịch bệnh gần đây, bao gồm cả
Ebola và SARS, và phát hiện ra rằng “các trận đại dịch đã thúc đẩy việc ứng dụng
robot, đặc biệt là khi nó tác động nghiêm trọng đến sức khỏe và có khả năng gây
ra suy thoái kinh tế”. Trong những năm 1920, tự động hóa diễn ra nhanh chóng tại
Mỹ, đặc biệt là ở ngành viễn thông, và đây lại là công việc phổ biến nhất của
phụ nữ trẻ Mỹ vào đầu thế kỷ 20. Những người khác thì rút ra mối liên hệ giữa
Cái chết đen và máy in do Johannes Gutenberg sáng chế. Có rất ít bằng chứng xác
thực về sự gia tăng tự động hóa nhờ Covid-19, mặc dù người ta vẫn nghe được nhiều
câu chuyện về sự xuất hiện của robot.
Tuy nhiên, tự động hóa có lấy đi việc làm của
con người hay không lại là một vấn đề khác. Và một số nghiên cứu cho thấy rằng
trên thực tế công nhân còn làm việc tốt hơn sau đại dịch. Một nghiên cứu của Cục
Dự trữ Liên bang Mỹ chi nhánh San Francisco (FRB SF) công bố hồi năm ngoái cho
thấy mức lương thực tế có xu hướng tăng lên. Trong một số trường hợp, hiện tượng
này xảy ra thông qua một cơ chế khá ghê rợn: bệnh dịch làm nhiều người lao động
thiệt mạng khiến những người sống sót ở vị thế tốt hơn khi tiến hành thương lượng
tiền lương.
Tuy nhiên, trong những trường hợp khác, lương
tăng là hệ quả của những thay đổi chính trị – bài học lớn thứ ba từ các thời kỳ
bùng nổ kinh tế trong lịch sử. Khi mà tất cả mọi người phải gánh chịu một tai họa
nào đó, thì những người thuộc tầng lớp lao động dường như nhạy cảm hơn. Điều
này có vẻ cũng đang xảy ra trong trận đại dịch hiện nay: các nhà hoạch định
chính sách trên toàn thế giới tương đối ít quan tâm đến việc giảm nợ công hoặc
ngăn chặn lạm phát so với những nỗ lực nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Một nghiên
cứu mới từ ba học giả của Trường Kinh tế London (LSE) cũng cho thấy rằng
Covid-19 đã khiến mọi người trên khắp châu Âu trở nên ác cảm hơn với sự bất bình
đẳng.
Trong một số trường hợp, những nỗi bất bình đè
nén như vậy đã bùng nổ thành các cuộc khủng hoảng chính trị. Các trận đại dịch
thường phơi bày và làm nổi bật những bất bình đẳng đã tồn tại từ trước, khiến
những người ở bên phía thất thế trong cuộc mặc cả phải tìm cách lập lại thế cân
bằng. Theo một nghiên cứu thì dịch Ebola trong giai đoạn 2013-2016 đã làm tăng
40% bạo lực dân sự ở khu vực Tây Phi. IMF gần đây cũng có bài nghiên cứu về ảnh
hưởng của 5 đại dịch, trong đó bao gồm Ebola, SARS và Zika, tại 133 quốc gia kể
từ năm 2001. Họ phát hiện ra rằng các đại dịch đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể
tình trạng bất ổn xã hội. “Có lý do để tin rằng, khi đại dịch qua đi, bất ổn có
thể bùng phát trở lại ở những địa điểm mà nó đã từng xảy ra trước đây”, các nhà
nghiên cứu viết trong một công bố khác của IMF. Bất ổn xã hội dường như sẽ lên
đến đỉnh điểm hai năm sau khi đại dịch kết thúc. Hãy tranh thủ tận hưởng quả ngọt
từ sự bùng nổ kinh tế sắp đến trước khi tình hình chuyển biến sang một hướng
khác.
---------
Nguồn: “What
history tells you about post-pandemic booms”, the Economist,
25/4/2021.
No comments:
Post a Comment