Âu
Dương Thệ
19/05/2021
·
Do định kiến chủ quan và kiến thức nông cạn nên
Nguyễn Phú Trọng đã phủ nhận những thành quả to lớn của nhân loại
·
Tiếp tục muốn cho nhân dân ăn bánh vẽ!
·
Cứ nhắm mắt đi tìm thiên đàng XHCN, nhưng không biết
nó ở đâu, như thế nào và bao giờ tới!
·
Biểu đồ tiến lên thiên đàng XHCN theo kiểu Nguyễn
Phú Trọng!
Nhân dịp kỷ niệm 131 năm ngày sinh Hồ Chí Minh
(19.5.1890 – 19.5.2021) và bầu đại biểu Quốc hội khoá 15 (23.5.21) Nguyễn Phú
Trọng đã viết một bài dài với tựa đề “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [1] ngày 16. 5. 2021 để tìm cách thuyết
phục cho lí do, tại sao từ khi cướp được chính quyền (1945) HCM tới Nguyễn Phú
Trọng hiện nay đã chọn và tiếp tục đi theo con đường Chủ nghĩa xã hội (CNXH)
theo chủ nghĩa Marx-Lenin ở VN. Điều đáng để ý là, trong bài nói trên ông Trọng
đã sử dụng danh xưng theo thứ tự “Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng”,
rồi mới tới “Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam”. Đây có lẽ là lần đầu tiên ông Trọng đã để cả hai chức danh học vị
khoa học và chức danh trong đảng trong một bài viết và để chức danh học vị khoa
học trước chức danh hoạt động chính trị.
Nhưng có lẽ việc lựa chọn theo thứ tự này
không phải là tự nhiên mà đã được tính toán cẩn thận, để tỏ rằng khi viết bài
trên Nguyễn Phú Trọng đã đặt tinh thần khoa học trên tinh thần đảng phái chính
trị, nghĩa là trọng sự thực hơn là tuyền truyền dối trá! Chính vì vậy ngay phần
mở đầu của bài viết Nguyễn Phú Trọng đã rào trước đón sau, làm như một nhà khoa
học giữ tinh thần thận trọng, khách quan và dân chủ: “Chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực
tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có
nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu,
nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.”(*)
Do định kiến chủ quan và kiến thức nông cạn nên
Nguyễn Phú Trọng đã phủ nhận những thành quả to lớn của nhân loại
Nhưng ai vội cả tin như vậy thì trở thành khờ
khạo, ngây thơ! Vì khi viết bài trên Nguyễn Phú Trọng đã đặt mục tiêu trung tâm
là, bằng mọi giá phải đập phá chủ nghĩa Tư bản, đặc biệt chụp mũ và kết án các
chế độ Dân chủ Đa nguyên (DCĐN) của thời đại chúng ta, vì nó ngày càng trở
thành đối thủ chính trị nguy hiểm của chế độ độc tài toàn trị, để từ đó đề cao
chủ nghĩa CS hay Chủ nghĩa Xã hội! Nghĩa là Nguyễn Phú Trọng trước sau chỉ muốn
lập lại khẳng định của những lãnh tụ CS từ Lenin, Stalin, Mao, HCM… rằng, chỉ
có Dân chủ XHCN, pháp chế XHCN do ĐCS lãnh đạo toàn quyền mới là dân chủ thực sự!
Từ thâm ý này nên ngay sau phần mở đầu, lí
thuyết gia giáo điều CNXH Nguyễn Phú Trọng đã đặt trọng tâm vào việc phủ nhận sự
thực khách quan về cuộc sống ấm no và tự do dân chủ đạt tới mức cao của đại đa
số nhân dân trong nhiều nước Dân chủ đa nguyên (DCĐN) vào đầu Thế kỉ 21. Trái lại
ông Trọng chỉ lập lại như cái máy những phát biểu khuôn mẫu từ cửa miệng những
lãnh tụ độc tài khát máu trên thế giới, khẳng định rất chung chung rằng, các nước
theo chế độ DCĐN trên thế giới HIỆN NAY trước sau vẫn chỉ là con đẻ của Chủ
nghĩa tư bản (CNTB) từ vài thế kỉ trước khi Cách mạng Công nghiệp ra đời (khoảng
trên 200 năm). Theo ông Trọng, các nước DCĐN từ Bắc Âu, Trung-Nam Âu, Hoa kì,
Gia nã đại và một số nước ở Á châu, Úc châu trước sau vẫn bị các đại tư bản
thao túng, chỉ huy. Vì thế vẫn theo cách giải thích “khoa học” của nhà khoa bảng
Nguyễn Phú Trọng, ở các nước này dân chủ chỉ là hình thức, con người tiếp tục bị
bóc lột:
“Thực
tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức
quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc
về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân – yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ
thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích
của các tập đoàn tư bản lớn.” (*)
Và ông Trọng kết án tiếp: “Sự rêu
rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực
hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không
thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối
thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển,
các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ
nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng
trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.” (*)
Với cách chụp mũ và mạt sát này Nguyễn Phú Trọng
muốn bênh vực cách tổ chức bầu cử Quốc hội khóa 15 đang diễn ra trước sau vẫn
chỉ là “đảng cử dân bầu”, dân chủ cuội, chỉ tốn tiền bạc của nhân dân. Nó chỉ
phản ảnh cách độc diễn của chế độ độc đảng từ ngay trong các Đại hội (ĐH) Đảng,
chỉ những người có quyền lực muốn độc quyền tiếp. Đúng như cách tham nhũng quyền
lực của Nguyễn Phú Trọng trong ĐH 13 vừa qua đang bị dư luận nhân dân, cả trong
đảng bất phục và kết án, nhiều tổ chức quốc tế tiến bộ phê phán! [2]
Mặt khác nếu xét dưới khía cạnh khoa học lịch
sử và khoa học chính trị trên hai thế kỉ trở lại đây thì thấy những khẳng định
của Nguyễn Phú Trọng cho rằng, trước sau CNTB vẫn thống trị và những thành quả
tranh đấu của nhân dân để chuyển từ phong kiến độc tài, tư bản độc tài và DCĐN
chỉ như nước dổ lá khoai. Đây là những nhận định cực kì hồ đồ, phản
khoa học của những người có dụng tâm đen tối. Với cách cụm tất cả vào một rọ,
ông Trọng đã cố tình coi xã hội loài người nói chung và đặc biệt các nước DCĐN
như hoàn toàn bất động, thời gian dường như dừng lại suốt mấy thế kỉ qua! Nguyễn
Phú Trọng tốt nghiệp Tiến sĩ về lịch sử Đảng CSVN, nhưng đã cố tình bỏ qua qui
luật phát triển không ngừng của lịch sử nhân loại từ thời Cổ đại tới nay!
Nghĩa là, theo Nguyễn Phú Trọng, chế độ Tư bản
rừng rú cá lớn nuốt cá bé vẫn tiếp tục ngự trị quan hệ giữa đảng cầm quyền và
nhân dân ở trong các nước DCĐN? Với những kết luận cực kì hàm hồ như trên, cho
thấy Nguyễn Phú Trọng đã không tôn trọng tinh thần khách quan và trung thực
khoa học trong các lãnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục và văn hóa mà xã hội
loài người nói chung và đặc biệt các nước DCĐN đã đạt được trong vài thế kỉ trở
lại đây. Nguyễn Phú Trọng không dám nhìn nhận thực tế phát triển, tuy ở mức độ
khác nhau, nhưng ở nhiều nước DCĐN -đặc biệt ở các nước DCĐN lâu đời và có trình
độ cao- các thế lực tư bản cực hữu đã phải tự biến thể, hoặc bị mất quyền vào
tay các đảng dân chủ xã hội, tự do hay phải chia quyền với các chính đảng khác
trong các cuộc bầu cử hoàn toàn tự do dưới sự tổ chức và kiểm soát nghiêm ngặt
của các cơ quan công quyền độc lập, báo chí tự do và các tổ chức xã hội dân sự
độc lập.
Nguyễn Phú Trọng cũng không dám nhìn nhận rằng,
ở các xã hội này đã bùng nổ các phong trào tranh đấu giành lại các quyền chinh
trị, kinh tế và văn hóa xã hội bằng phương pháp ôn hòa, không theo chủ trương
điên rồ dùng bạo lực và đấu tranh giai cấp như các nhóm CS quá khích. Chính sự
tranh đấu kiên quyết bền bỉ và bất bạo động của nhiều thành phần nhân dân -từ
trí thức, chuyên viên, công nhân, kể cả thành phần tư bản và CS tiến bộ- đã
thuyết phục được các thế lực cực hữu tới cực tả phải thức tỉnh từ bỏ những giải
pháp bạo lực, cực đoan nếu muốn tồn tại. Nhờ thế các xã hội này đã từng bước chắc
chắn công nhận các quyền tự do lập hội, tư do bầu cử, tự do báo chí và tam quyền
phân lập. Từ đó nhân dân có quyền quyết định các chính quyền tương lai qua các
cuộc bầu cử dân chủ tự do như ở hầu hết các nước DCĐN hiện nay từ Âu-Mĩ-Á và Úc
châu. Nhờ thế mở ra những sự thay đổi chính quyền trong trật tự và ổn định,
thay vì bạo loạn hay nội chiến.
Chính sự hình thành của nhiều khuynh hướng chính trị
ôn hòa, các tổ chức xã hội độc lập và đa diện đã tạo ra qui luật cạnh tranh
lành mạnh và cùng tồn tại. Đây là những điều kiện cần và đủ để giúp đất nước tiếp
tục phát triển đều đặn, đời sống vật chất phồn vinh hơn, nhân quyền được vinh
danh và tôn trọng cho đại đa số. Phủ nhận những công lao tranh đấu với phương
pháp thông minh và nhân bản và những thành tựu tích cực về nhiều mặt phục vụ cuộc
sống vật chất và tinh thần của mấy tỉ người trên hành tinh chúng ta là những nhận
định cực kì hồ đồ, phản khoa học. Đó chỉ là thâm ý của những phần tử cuồng tín
và độc tài, mù quáng muốn tiếp tục cổ súy cho bạo lực, hận thù và đấu tranh
giai cấp!
Nói như thế không có nghĩa là, các phong trào này ở
nhiều nước không gặp trở ngại, chống đối hay thất bại. Việc này vẫn diễn ra ở
nhiều nơi, nhiều lúc, nhưng chỉ đoản kì. Cụ thể gần đây nhất là ở Hoa kì suốt 4
năm dưới thời Trump làm Tổng thống. Nhưng do các định chế tốt và bền vững của
chế độ DCĐN ở Hoa kì nên được đa số nhân dân tin tưởng, bảo vệ; nên sau đó tiếp
tục sửa chữa, cải thiện, ví như một con người đôi khi bị đau yếu cần được điều
trị. (ADT về Trump)
Tiếp tục muốn cho nhân dân ăn bánh vẽ!
Sở dĩ Nguyễn Phú Trọng đã cố tình phủ nhận và
bài bác toàn bộ những thay đổi tích cực căn
bản sâu sắc và liên tục do thành quả đấu tranh
của nhân dân ở nhiều nước DCĐN. Vì chỉ như
vậy ông mới có lí do biện hộ cho sự tồn tại của
chế độ toàn trị theo pháp chế XHCN, dân chủ
XHCN. Tức là biện hộ cho chính cách giành giật
quyền lực của ông, bằng cách nhân danh
đại diện đứng đầu của chế độ toàn trị này nên
ông Trọng đã mấy lần ép buộc các đồng liêu
trong Bộ chính trị và các ủy viên Trung ương
phải xếp cho ông vào “Trường hợp đặc biệt”
để chiếm tiếp tục ghế Tổng bí thư (TBT) thêm
hai nhiệm kì, mặc dù đã quá tuổi qui định và
bệnh nặng. Như thế do ích kỉ cá nhân nên Nguyễn
Phú Trọng đã công khai vất Điều lệ đảng
vào sọt rác![3] Nắm quyền lực độc đoán quá lâu nên
tâm lí ích kỉ và thái độ độc tài càng
bùng nổ khủng khiếp như thế. Vì vậy Nguyễn Phú
Trọng đã không thấy ngượng ngùng tự
khen thành quả trên 70 năm xây dựng CNXH ở VN:
“Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (*)
Sau trên 75 năm bị kìm kẹp trong nhà tù “Dân chủ
XHCN” nên nhân dân tiếp tục bị tước bỏ các quyền tự do căn bản, như tự do
lập hội, tự do báo chí; hiện nay mấy trăm trí thức, chuyên viên, trong
đó cả phụ nữ và đảng viên tiến
bộ đang bị giam cầm. VN đang đứng gần như đội sổ trên thế giới về chà đap nhân
quyền và tham nhũng. Nhưng trong bài trên Nguyễn Phú Trọng lại vẫn ca tụng chế
độ độc tài do ông cầm đầu và lập lại rất nhàn chán những khẩu hiệu và tiêu chí
rất sáo ngữ từ cả gần thế kỉ nay:
“Trong
chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân
là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của
nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị
và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm
chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu,
lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng
thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp
quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ
cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là
công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi
ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các
điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên
chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.” (*)
Chẳng những thế, trong bài trên Nguyễn Phú Trọng còn
ca ngợi giải pháp Kinh tế thị trường định hướng XHCN (KTTTĐHXHCN) là một sáng tạo
thần kì của CSVN đã vội vàng được ban bố để cứu chế độ toàn trị từ sau khi Liên
xô sụp đổ:
“Đưa
ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột
phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng
qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của chúng ta,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại,
hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường
mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường;” (*)
Ông Trọng nắm độc quyền quá lâu nên đã để phát triển
tâm lí thỏa mãn, tự bốc. Vì thế Nguyễn Phú Trọng không thấy rằng, dùng
giải pháp KTTTĐHXHCN trong thực tế đúng là áp dụng đường lối Tư bản Nhà nước, một
biến thể của nền Kinh tế tư bản thời kì Chủ nghĩa tư bản thời rừng rú còn phồn
thịnh. Để cho các Tập đoàn và công ti quốc doanh độc quyền toàn bộ các
huyết mạch kinh tế, giành cho nó các biệt đãi trong đất đai và bòn rút ngân
sách nhà nước. Coi nó là vũ khí và động lực chính để kéo dài chế độ toàn trị.
Nhưng các Doanh nghiệp nhà nước này đã trở thành sân sau của những người có quyền
lực trong đảng cấu kết với các nhóm lợi ích, tham nhũng của công và bóc lột
nhân dân như các nhóm tư bản thời kì Tư bản rừng rú. Vì thế hơn ba thập
niên áp dụng, hệ thống KTTTĐHXHCN đang làm thui chột các doanh nghiệp tư nhân nội
địa, khuyến khích “các đại bàng” các đại công ti tư bản nước ngoài (FDI).Từ sau
ĐH 13 đang tìm cách giành cho một số đại gia nội địa tỉ phủ Dollar thao túng
kinh tế với sự tiếp tay của các nhóm lợi ích giữ các chức vụ then chốt trong
các cơ quan Dảng và Nhà nước. Nói tóm lại, các biện pháp kinh tế
nói trên chỉ là áp dụng các phương pháp của chủ nghĩa tư bản thời rừng rú trước
đây vài thế kỉ. Các chính sách này đang là các ổ tham nhũng cho các đại quan và
các nhóm tham nhũng bóc lột nhân dân và tham nhũng tiền bạc, đất đai và tài
nguyên.
Vẫn giữ thái độ chủ quan mù quáng đến nỗi mất lòng tự
trọng, nên trong bài trên Nguyễn Phú Trọng đã liệt kê “thành tích chói lọi” sau
35 năm đổi mới. Như thu nhập bình quân đầu người là 3.512 USD; “ Tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim
ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD.” (*) Nhưng
Nguyễn Phú Trọng cố lờ đi một sự thực là không dám so sánh ngay với một số nước
trong khu vực, cũng chỉ trong khoảng thời gian phát triển 30-40 năm nhưng thu
nhập bình quân đầu người của họ cao gấp nhiều lần so với VN, như Nam hàn 31.846
USD, Đài loan 25.873 USD, Thái lan 7.807 USD.[4] Lí do chênh lệch căn bản so với
VN nhưng ông Trọng khóng dám nói tới. Đó là các nước này phát triển trong khuôn
khổ DCĐN, trái với chế độ toàn trị ở VN. Ông Trọng ca tụng thành tích gia tăng
xuất khẩu ngoạn mục của VN, nhưng cố lờ đi sự thực hoàn toàn khác
là, “các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam, chiếm hơn 50% giá trị sản xuất công nghiệp.” Nghĩa là: “Về thực chất, quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước thời gian qua là nhờ vốn FDI chứ
không phải do vốn trong nước, không phải do nội lực.” [5]
Tuy thế Nguyễn Phú Trọng lại đi đến kết luận cực kì
hồ đồ và dối trá là “Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh
rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích
cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với
các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế”! (*)
Từ đó Nguyễn Phú Trọng lại tự bốc, tự sướng, kiêu hãnh nhắc lại câu đã được ông lập lại nhiều lần, thậm chí
mới đây trong ĐH 13 còn bất cả ĐH phải ghi câu này vào Nghị quyết của ĐH: “Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay.” (*)
Cứ nhắm mắt đi tìm thiên đàng XHCN, nhưng không biết
nó ở đâu, như thế nào và bao giờ tới!
Trong bài trên Nguyễn Phú Trọng viết vào dịp kỉ
niệm sinh nhật HCM, nên có nhắc tới hai tuyên bố nổi tiếng của ông Hồ là “Không
có gì quý hơn Độc lập Tự do” (*) và “ chỉ có chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc,
mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi
người, cho các dân tộc.” (*) Ông Trọng cũng như nhiều người
nghiên cứu về HCM đều biết, ông Hồ đã nói hai câu trên vào hai giai đoạn
khác nhau. Đó là trước khi cướp được chính quyền, để qui tụ nhân dân khi ấy đa
số đều muốn đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, nên ông đã tuyên bố, “Độc lập tự
do” là cao quí nhất. Nhưng sau khi có chính quyền trong tay HCM đã chọn thứ tự
ưu tiên khác, đó là chủ nghĩa CS Marx-Lenin được ưu liên xếp lên đầu! Nghĩa là
“độc lập tự do” của VN hoàn toàn tùy thuộc vào “chủ nghĩa cộng sản”. Điều này
phải hiểu là “chủ nghĩa cộng sản” cao quí hơn “độc lập tự do”. Đây rõ ràng là một
sự tráo trở của HCM đối với nhân dân VN. Thái độ cố tình lật ngược thứ tự ưu
tiên của HCM đã bị nhiều đảng viên trí thức tên tuổi công khai phê bình nghiêm
khắc ngay trong một cuộc “tọa đàm” về “Dự thảo Cương lĩnh và dự thảo chiến lược”
(cho Đại hội 7) do Tạp chí Cộng sản tổ chức vào ngày 2.1.1991.[6] Chọn
đảo lộn thứ tự ưu tiên trên đây từ thời HCM tới Nguyễn Phú Trọng
là cực kì sai lầm và nguy hiểm, nó trở thành tập quán suy nghĩ và hành động
trong chính sách đối ngoại của chế độ CSVN, đặc biệt với Trung quốc. Trong các
hội nghị cấp cao giữa Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng, hai bên đều đề cao “đại
cục, cùng là chế độ CS”. Vì thế VN đang bị mất đảo, mất tài nguyên và đang ngày
càng lệ thuộc Trung quốc!
Đa số nhân dân và cả trong Đảng đều biết, khi
sinh thời HCM muốn tự ca tụng mình, nên đã nghĩ ra quỉ kế viết sách ca tụng
chính ông, nhưng dùng một bút hiệu khác. Đó là tập sách của HCM mang bút hiệu
Trần Dân Tiên viết về mình (tức HCM), ông Hồ đã rất dối trá khi tự tâng bốc
“nhân dân ta gọi Hồ Chủ tịch là cha già của dân tộc.[7] Theo lẽ thường một người có tư
cách, biết quí tự trọng thì không thể tự khen và thần thánh hóa mình, và lại
càng không được dối trá dùng một bút hiệu khác viết sách ca tụng mình! Một người
mưu mô và hành động tồi tệ như vậy đã tự mình đánh mất nhân cách. Rất lạ lùng
là tới nay Nguyễn Phú Trọng vẫn bắt nhân dân phải “học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”!!!
Trong bài trên Nguyễn Phú Trọng vẫn
như cái máy tiếp tục coi HCM như thánh sống. Nếu dám thành thực với chính
mình, ông Trọng nên trả lời trước công luận để nhân dân biết: Nên học tập tư tưởng,
đạo đức và phong cách nào của HCM? Chả lẽ cứ theo Bác mở
“đũa thần” Marx-Lenin đã bị lịch sử vất vào sọt rác ra làm tiếp? Chả lẽ học
cách cố tình lừa dối nhân dân bằng cách tự đề cao mình như HCM đã làm không biết
ngượng ngùng, không biết tự trọng, rồi bảo đó là đạo đức và phong cách đáng làm
gương? Hay chả lẽ tiếp tục học tập HCM sử dụng các thủ đoạn cực kì gian dối để
lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân dựng lên một chính quyền độc tài bạo ngược
chỉ lo củng cố quyền lợi phe nhóm, tham nhũng rồi phản bội quay đầu đàn áp lại
nhân dân? [8]
Nói tóm lại, trong bài rất dài trên 8000 chữ,
mục tiêu chính của Nguyễn Phú Trọng là đả phá TBCN và phủ nhận toàn bộ những
thành quả đấu tranh kiên trì và sáng suốt của các phong trào đấu tranh tư tưởng,
chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội để thiết lập chế độ DCĐN nhằm nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Từ đó Nguyễn Phú Trọng đã lạm dụng chức
Tổng bí thư cường điệu lập lại các khẩu hiệu cổ động cho CNXH, CNCS: “Đi
lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử”. (*) Nhưng con đường đó như thế nào và bao giờ tới
được thì chính Nguyễn Phú Trọng cũng thừa nhận vẫn mù tịt. Nghĩa là, bao giờ sẽ
tới thiên đàng XHCN? Không biết Thiên đàng nằm ở đâu và người chỉ đường lại
không biết coi bản đồ! Nguyễn Phú Trọng hãy tỉnh táo lại và nghiêm túc tự hỏi
mình: Ông có dám để cho gia đình và con cháu tới một nơi mà không biết nằm ở
đâu, điều kiện sinh sống ra làm sao?!!!
“Tuy
nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là
điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng
bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo
đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.” (*)
Người
cầm đầu chế độ toàn trị thông minh, sáng suốt và tinh thần trách nhiệm cao với
trên 90 triệu dân như vậy sao? Có thể kết luận, xét về nội dung, trình độ lí luận
và lương tâm nghề nghiệp của Nguyễn Phú Trọng trong bài mới nhất nói trên, càng
chứng tỏ khả năng rất thấp và tư cách rất tồi không xứng đáng là một nhà khoa học,
cũng không xứng đáng đứng đầu chế độ!
Để đối chiếu so sánh giữa mục tiêu và thực tiễn
của chế độ toàn trị CSVN trên 75 qua có thể xem biểu bồ dưới đây:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/05/0-79-986x1024.jpg
Biểu đồ diễn tả mục
tiêu và đường lối tiến lên thiên đàng CS (XHCN) và so với kết quả thực tiễn
Tình hình phát triển giữa lí thuyết và thực tiễn
ở VN từ Đại hội 6 (1986) tới Đại hội 12 (2016) có thể tóm lược diễn tả rõ ràng
bằng một biểu đồ như dưới đây. Nó cho thấy, ngày càng cách xa mục tiêu XHCN, thậm
chí đang có chiều hướng đi ngược lại với mục tiêu của CNXH. Thay vì đổi mới để
tiến lên thiên đàng XHCN, VN đang biến thành địa ngục trần gian. Bọn đại quan đỏ
có quyền nắm tiền bạc và cúi đầu trước phương Bắc, người lao động bị bóc lột,
trí thức bị bạc đãi, những người bất đồng chính kiến bị giam cầm!
Cứ 5 năm một lần ĐCSVN lại tổ chức Đại hội.
Trong đó ngoài việc bầu cử nhân sự mới ở các cấp cao nhất (Tổng bí thư, Bộ
chính trị, Ban bí thư, Ban chấp hành trung ương), còn ban hành kế hoạch ngũ
niên về kinh tế-xã hội cho 5 năm tới. Trong đó đưa ra mục tiêu và các biện pháp
để đưa VN từng bước tiến dần tới XHCN, tức thiên đàng CS (ààà) theo trí tưởng
tượng của họ. Ở đó không còn cảnh người bóc lột người, không cần nhà nước
(chính quyền), mọi người lao động theo khả năng, hưởng theo nhu cầu và thế giới
đại đồng!
Đấy là mặt lí thuyết. Thực tế lại diễn ra hoàn
toàn khác. Mỗi ĐH thường đề ra mục tiêu rất cao (– – – – ->), tùy
thuộc vào trí tưởng tượng và ước muốn chủ quan khi đó của người có quyền lực.
Nhưng kết quả thực tiễn đạt được lại rất thấp (――>). Cứ sau mỗi 5 năm
họ lại đưa ra mục tiêu mới cho giai đoạn tiếp theo. Vào thời điểm đó, do sự chủ
quan cũng như thích tô hồng, họ tin rằng (hay tự ru ngủ) là, mình đã đi đúng hướng,
đã thành công được một giai đoạn và nay bước lên đỉnh cao mới trên đường tiến tới
XHCN! Nhưng kết quả thực tiễn của giai đọan này cũng lại thấp hơn rất nhiều so
với mục tiêu đã đề ra, có khi còn đi chệch hướng. Tuy nhiên vì bị tâm lí ảo tưởng
điều khiển và là nạn nhân của tuyên truyền tô hồng của chính mình, nên họ không
nhận ra hay không muốn nhìn nhận sự thực này!
Qua
thời gian sau nhiều ĐH, sự cách biệt, hay khoảng cách giữa mục tiêu tiến lên
XHCN và kết quả thực tiễn ngày càng doãng ra, càng chệch hướng xa hơn nữa. Vì
thế khi nhìn trên Biểu đồ thì thấy kết quả thực tiễn ngày càng xa thiên đàng
CS, thậm chí còn đi ngược chiều. Biểu đồ dưới đây diễn tả tiến trình xây dựng
XHCN sau 7 Đại hội (từ 1986-2016) của ĐCSVN trải qua trên 30 năm. Trong thực tiễn
cho thấy, xã hội VN ngày càng xa thiên đường XHCN và có nguy cơ rơi vào chiều
hướng tiếp tục ở trong vòng luẩn quẩn của các nạn độc tài, tham nhũng, nghèo đói
và tụt hậu. Hoàn cảnh này có thể hình dung như người đi đường không có bản đồ
(navigation), nhưng vẫn tin là mình đi đúng hướng!
Chính
điều này Nguyễn Phú Trọng đã từng phải xác nhận. Khi đưa ra Cương lĩnh mới
(2013) ông Trọng nói là phải đưa VN tiến nhanh lên CNXH. Nhưng chỉ ít lâu sau
ông đã xác nhận là, không biết trong thế kỉ này (21) VN có tiến lên XHCN được
không!
HCM
đã từng nói, muốn xây dựng XHCN thì phải có con người XHCN.
Nhưng
thực tế sau gần 70 năm nắm quyền và cai trị theo phương pháp sắt máu công an trị,
dối trá, dùng bạo lực và đấu tranh giai cấp theo kiểu Stalin-Mao Trạch Đông,
nên chế độ toàn trị của ĐCSVN đã thất bại hoàn toàn trong việc uốn nắn và đào tạo
con người XHCN, nhất là từ giai đoạn gọi là “đổi mới” từ 1986 tới nay. Hiện nay
chế độ toàn trị ở VN đã đánh mất tính nhân bản, vì tham vọng quyền lực và tham
lam tiền bạc, nên các phe nhóm đang dùng các thủ đoạn vừa thỏa hiệp vừa thanh
toán lẫn nhau, lừa đảo và đàn áp nhân dân. Điều này sẽ đưa tới xã hội hỗn loạn
và bất trị, biến thành chế độ tư bản rừng rú, kẻ mạnh giết kẻ yếu! [9]
______
Ghi
chú:
[1]. Nguyễn PhúTrọng,
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
(dangcongsan.vn), CS điện tử 16.5.21.Trên tờ Chính phủ điện tử
dùng tựa:
* Các đoạn có dấu (*) đều trích từ bài trên
[2] . Âu
Dương Thệ, Đại hội 13: Triều đại phong kiến của Ngọa long Nguyễn Phú Trọng
được nhìn nhận công khai! | Tiếng Dân (baotiengdan.com)
[3] . Như
trên
[4] . Liste der Länder nach Bruttoinlandsprodukt pro Kopf –
Wikipedia
[5] . Tư
Giang, Giấc mơ hóa rồng dang dở, vnn 11.12.20
https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/viet-nam-hung-cuong/giac-mo-hoa-rong-dang-do-696264.html
[6] . Trong số này có những chuyên viên cao cấp và có uy tín,
như GS Phan Đình Diệu, Lưu Văn Đạt, Lê Hồng Hà, Đậu Quý Hạ, TS Nguyễn Thành
Bang, GS Đào Xuân Sâm. Xem: Cùng tác giả: Việt Nam “Đổi mới”?! Hay: Treo đầu dê, bán thịt chó! Tập I:
Amazon.de: Âu Dương, Thệ: Fremdsprachige Bücher, Tập I, Chương ba,
tr.90-93 .
[7] . Trần
Dân Tiên (bút hiệu của HCM), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của HCM, Hà nội
1976,tr. 149. Chính tờ CS đã xác nhận Trần Dân Tiên là một trong số ít nhất 175
bút hiệu của HCM, http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/lich-su-dang/doc-
010720152043156.html; Bùi Tín, Hoa xuyên tuyết, tr. 110 t.th; BBC
25.11.18
[8] . Bao giờ Nguyễn Phú Trọng dám sớm về vườn để biết học làm “người
tử tế”?Tại sao lại cứ giương cờ HCM không có thật? http://www.dcvapt.net
[9] . Cùng
tác giả, Tập II, Chương kết, VI, tr. 275-277
No comments:
Post a Comment