THOMAS PIKETTY: ĐỐI ĐẦU VỚI LỊCH SỬ LÂU ĐỜI
CỦA CHÚNG TA VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG LỚN
Tác giả: Daniel
Steinmetz-Jenkins, Twitter
02/01/2021
http://www.phantichkinhte123.com/2021/01/thomas-piketty-oi-au-voi-lich-su-lau-oi.html#more
Nhà kinh tế học người Pháp Thomas Piketty trong một buổi chụp ảnh ở Paris
vào ngày 10 tháng 9 năm 2019. (Ảnh của Joel Saget / AFP / via Getty Images
/ Courtesy of Harvard University Press)
Quyển
sách đồ sộ năm 2013 của Thomas Piketty, Capital in the Twenty-First
Century (Tư bản thế kỷ XXI), đã
tạo ra một cơn sốt học thuật hiếm có ở đất nước này và cả những nơi khác. Tác
phẩm đã làm được như vậy bằng cách đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa
ra lời giải thích cụ thể cho sự bất bình đẳng ngày càng tăng,
được hỗ trợ bởi một lượng lớn bằng chứng lịch sử và thống kê có từ thế kỷ 18 ở
Pháp, Hoa Kỳ, Anh và Đức. Ông lập luận rằng tỷ suất lợi nhuận trên của cải thừa
kế trong một nền kinh tế sẽ luôn tăng nhanh hơn thu nhập mà một người kiếm được
thông qua lao động được trả công. Piketty nhận xét rằng vì vậy sự gia tăng bất
bình đẳng chính là một phần trong bản chất của chủ nghĩa tư bản và chỉ có thể
được kiểm soát thông qua nhiều hình thức can thiệp của nhà nước. Có rất nhiều
phê bình từ mọi hướng trên bàn cờ chính trị chỉ trích quyển sách của Piketty,
nhưng không thể phủ nhận rằng Tư bản thế kỷ XXI là biểu tượng
của một tinh thần mới nổi sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Bảy
năm sau, Piketty đã trở lại với một quyển sách thậm chí còn lớn hơn và đầy tham
vọng hơn: Capital and Ideology (Tư bản và hệ tư tưởng).
Ông coi quyển sách này là phần tiếp theo của Tư bản thế kỷ XXI nhưng
nâng cao những phát hiện của ông theo hai cách: Thứ nhất, khẳng định của quyển
sách trước rằng bất bình đẳng có xu hướng tăng lên khi tỷ suất lợi tức trung
bình của tư bản vượt quá tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đã cho ta ấn tượng
rằng cần có một thứ giống như quy luật của chủ nghĩa tư bản, một ấn tượng rằng
không thể làm được gì nhiều để thay đổi các định chế tạo ra bất bình đẳng ngoài
việc đánh thuế các định chế này. Thay vào đó, quyển sách mới này mạnh dạn tuyên
bố rằng bất bình đẳng cuối cùng bắt nguồn từ hệ tư tưởng. “Mọi xã hội loài
người phải biện minh cho những bất bình đẳng của mình; nếu không tìm thấy được
những lý do biện minh cho các bất bình đẳng này, toàn bộ hệ tư tưởng về chính
trị và xã hội đứng trước nguy cơ sụp đổ.” Ông lập luận rằng các xã hội biện
minh cho sự bất bình đẳng thông qua “lĩnh vực ý tưởng” hay cái mà ông mô tả là
“lĩnh vực chính trị-tư tưởng”, đó là “lĩnh vực thực sự tự trị”. Một tuyên bố
như vậy chắc chắn sẽ được tranh luận. Nhưng lý do mà Piketty bảo vệ điều đó rất
rõ ràng: để cho thấy rằng bất bình đẳng không phải tự nhiên mà có và nó có thể
được đối đầu và định hình lại thông qua vận động chính trị xã hội.
Và thứ hai, Piketty vượt ra khỏi trọng tâm địa
lý hẹp của Tư bản thế kỷ XXI, để đưa ra một lịch sử toàn cầu về
cách thức các hệ thống chính trị khác nhau đã biện minh cho sự bất bình đẳng và
cách thức các hệ thống này đã được biến đổi theo thời gian. Những chế độ bất
bình đẳng này, như Piketty mô tả, bao gồm: các xã hội phân chia theo tam cấp là
giáo sĩ, quý tộc và bình dân - như chế độ phong kiến ở châu Âu thời tiền
hiện đại hoặc chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ; các xã hội sở hữu thế kỷ 19 và đầu thế kỷ
20, giống như hệ thống quyền sở hữu tư sản ở Pháp và Anh; các nền dân chủ xã hội
thế kỷ 20, xuất hiện ở châu Âu sau Thế chiến thứ hai; và những gì ông mô tả là
“siêu chủ nghĩa tư bản” của trật tự thế giới thời hậu cộng sản.
Bằng
cách tập trung vào sự chuyển đổi các hệ tư tưởng cơ bản của các chế độ bất bình
đẳng này, Piketty cho thấy rằng “sự vận động chính trị xã hội có thể định hình
lại tổ chức xã hội và cấu trúc bất bình đẳng nhanh hơn nhiều so với những gì mà
hầu hết các nhà quan sát đương thời có xu hướng tưởng tượng”. Trên tinh thần
này, Piketty đưa ra các đề xuất chính sách của riêng mình, chẳng hạn như chia sẻ
quyền lực trong các công ty, thuế tài sản lũy tiến, kế hoạch sở hữu tạm thời (ý
tưởng rằng các chủ sở hữu tư nhân giàu có nhất phải trả lại một phần của những
gì họ sở hữu cho cộng đồng hàng năm để tạo điều kiện thuận lợi cho việc luân
chuyển của cải), và các giải pháp khác nhau để làm cho các xã hội phương Tây trở
nên dân chủ hơn.
Piketty đã nói chuyện với The Nation về
quyển sách mới của ông khác với quyển đầu tiên như thế nào, những suy nghĩ của
ông về hệ tư tưởng, các đề xuất chính sách tiến bộ của ông để kiềm chế bất bình
đẳng và COVID-19.
— Daniel
Steinmetz-Jenkins
*
DANIEL
STEINMETZ-JENKINS (DSJ): Thành công của quyển sách bom tấn Tư bản thế kỷ
XXI rõ ràng đã khiến ông bị bất ngờ. Bây giờ, sáu năm sau, ông đã viết Tư
bản và hệ tư tưởng, có độ dài gần gấp đôi và đầy tham vọng một cách bất thường
trong nỗ lực cung cấp một lời giải thích lịch sử dài hơi cho sự bất bình đẳng
hiện đại trên quy mô toàn cầu. Ông có cảm thấy một áp lực nào đó để làm cho tác
phẩm này đáp ứng được những kỳ vọng mà tác phẩm trước đã đặt ra không?
THOMAS
PIKETTY (TP): Tôi
tin rằng quyển sách này phong phú và thú vị hơn nhiều so với quyển trước. Tư
bản thế kỷ XXI có nhiều hạn chế. Đặc biệt, nó quá tập trung vào phương
Tây. Thêm vào đó, nó có xu hướng coi hệ tư tưởng và thái độ chính trị đối với
bình đẳng và bất bình đẳng như một loại “hộp đen”. Trong Tư bản và hệ tư
tưởng, tôi cố gắng giải quyết hai hạn chế này bằng cách đưa ra quan điểm
toàn cầu hơn về sự phát triển của các cấu trúc bất bình đẳng - ở Ấn Độ, Brazil,
Nam Phi, Trung Quốc, Nga, v.v. - và dành sự quan tâm đáng kể cho các xã hội thuộc
địa, những di sản hiện đại của chế độ nô lệ và chủ nghĩa thực dân. Tôi cũng tập
trung chú ý vào sự biến đổi của hệ tư tưởng về bình đẳng và bất bình đẳng, tức
là trong lịch sử của các hệ thống khác nhau biện minh cho bất bình đẳng. Bằng
cách xem xét một loạt các kinh nghiệm và quỹ đạo lịch sử, một kết luận vững chắc
xuất hiện: các yếu tố quyết định sự bất bình đẳng chủ yếu là chính trị và hệ tư
tưởng, chứ không phải chỉ đơn thuần là kinh tế, công nghệ hoặc văn hóa. Trong
suốt chiều dài lịch sử, tôi nhận thấy, sự vận động chính trị xã hội có thể định
hình lại tổ chức xã hội và cấu trúc bất bình đẳng nhanh hơn nhiều so với những
gì mà hầu hết các nhà quan sát đương thời có xu hướng tưởng tượng. Đặc biệt, giới
tinh hoa thường có xu hướng tự nhiên hóa bất bình đẳng, tức là, trình bày cấu
trúc và mức độ bất bình đẳng hiện có là “tự nhiên” và vĩnh viễn. Nhưng đây hoàn
toàn không phải là những gì chúng ta quan sát được trong lịch sử.
*
DSJ:
Trong Tư bản thế kỷ XXI, ông đã lập luận rằng có “Những quy luật cơ
bản của chủ nghĩa tư bản” và đặc biệt tuyên bố rằng bất bình đẳng có xu hướng
gia tăng khi tỷ suất lợi tức trung bình của tư bản vượt quá tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế. Bằng cách đổ lỗi cần phải có một thứ giống như quy luật của chủ
nghĩa tư bản, ông
đã tạo ấn tượng cho một số người rằng không thể làm được gì nhiều để thay đổi
các định chế tạo ra bất bình đẳng ngoài việc đánh thuế các định chế này. Nhưng
quyển sách mới, dường như đối với tôi, cố gắng chống lại cách đọc như vậy bằng
cách nhấn mạnh rằng “bất bình đẳng không phải là kinh tế hay công nghệ; nó là hệ
tư tưởng và chính trị”. Ý của ông là gì?
TP: Trong quyển sách
trước của tôi, tôi thực sự đã nhấn mạnh đến vai trò của tỷ suất lợi tức của tư
bản, nhưng tôi không có ý định theo một cách tiếp cận tất định luận trên điểm này.
Đặc biệt, tôi nhấn mạnh thực tế là tỷ suất lợi tức thu được từ các danh mục tài
sản lớn trên thị trường tài chính toàn cầu lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ gần đây, và sự cần thiết phải có
các hành động chính sách - bao gồm cả thuế tài sản lũy tiến - để kiềm chế các
xu hướng bất bình đẳng này. Chủ đề này cũng đóng một vai trò quan trọng trong
quyển sách mới của tôi, và thực sự tài sản của các tỷ phú hàng đầu đã liên tục
tăng với tốc độ rất cao trong mười năm qua, điều này có lẽ góp phần giải thích
tại sao các ứng cử viên dân chủ như Bernie Sanders và Elizabeth Warren hiện
đang ủng hộ mạnh mẽ thuế tài sản lũy tiến, đó không phải là trường hợp một vài
năm trước đây.
Bây
giờ tôi có một cái nhìn rộng hơn nhiều về cách những chuyển đổi hệ tư tưởng của
hệ thống luật pháp, tài khóa và giáo dục đã xác định và xác định lại các chế độ
bất bình đẳng trong không gian và thời gian. Lấy trường hợp của Thụy Điển. Ngày
nay, nhiều người nhìn Thụy Điển về bản chất là theo chủ nghĩa bình quân và đôi
khi quy điều này cho một loại “văn hóa” Thụy Điển vĩnh viễn. Nhưng không phải vậy:
Cho đến đầu thế kỷ 20, Thụy Điển là một quốc gia rất bất bình đẳng, và theo nhiều
cách bất bình đẳng hơn nhiều so với các xã hội châu Âu khác, đặc biệt là trong
cách tổ chức sự thống trị chính trị của giới quý tộc và chủ sở hữu tài sản đối
với phần còn lại của xã hội. Từ năm 1865 đến năm 1911, hiến pháp Thụy Điển áp dụng
một hệ thống rất giàu trí tưởng tượng, theo đó chỉ 20% chủ sở hữu bất động sản
hàng đầu mới có quyền bỏ phiếu. Các thành viên của nhóm này có từ một đến một
trăm phiếu bầu, tùy thuộc vào số lượng tài sản và thuế của họ. Trong các cuộc bầu
cử thành phố, không có giới hạn mức cao hơn (và các công ty có quyền bỏ phiếu),
do đó ở vài chục thành phố của Thụy Điển, hơn 50 phần trăm số phiếu bầu thuộc về một cử tri duy nhất. Sau một cuộc vận động
dữ dội (nhưng tương đối ôn hòa) của các tổ chức công đoàn và đảng dân chủ xã hội
Thụy Điển (SAP), mọi thứ đã thay đổi với tốc độ mà không ai có thể tưởng tượng
được vào thời điểm đó. Quyền phổ thông đầu phiếu được áp dụng, SAP nắm quyền
vào năm 1932, và năng lực hành chính và năng lực nhà nước của Thụy Điển được
đưa vào phục vụ cho một dự án chính trị hoàn toàn khác. Người ta sử dụng việc
đăng ký tài sản và thu nhập một cách cẩn thận để bắt mọi người phải đóng thuế
lũy tiến nhằm tài trợ cho giáo dục và y tế cho tất cả mọi người (thay vì phân
phối quyền bầu cử liên quan đến sự giàu có). Xuyên suốt quyển sách của tôi, cho
dù tôi nói về Thụy Điển, Ấn Độ, Hoa Kỳ, Pháp hay Trung Quốc, tôi đều cố gắng chỉ
ra rằng mức độ bình đẳng hay bất bình đẳng được hình thành bởi sự vận động
chính trị xã hội và những thay đổi hệ tư tưởng, chứ không phải bởi những yếu tố
vĩnh viễn và tất định.
*
DSJ: Quy
mô toàn cầu của quyển sách của ông có thể làm nản lòng người đọc. Một trường hợp
điển hình là phân tích của ông về các chế độ tư tưởng khác nhau trong thế kỷ
19, chẳng hạn như “xã hội sở hữu” tư sản ở Pháp và Anh, “xã hội nô lệ” ở Hoa Kỳ
và Brazil, và “xã hội thuộc địa”, chẳng hạn như Ấn Độ và các nước Châu Phi. Ông
cho thấy tất cả những chế độ này, mặc dù có những biện minh khác nhau cho sự bất
bình đẳng, nhưng dường như có một sợi dây chung nào đó gắn kết các loại chế độ
khác nhau, cụ thể là các loại chế độ khác nhau này tuân theo những gì ông mô tả
là hệ tư tưởng của chủ nghĩa sở hữu. Ông có thể nói rõ hơn về hệ tư tưởng này?
TP: Trong các xã hội
tiền hiện đại, các chế độ bất bình đẳng được cấu trúc xung quanh các hệ tư tưởng
có ba chức năng. Giới quý tộc và giáo sĩ là những tầng lớp sở hữu tài sản,
nhưng đồng thời họ cũng được ban tặng những đặc quyền và sứ mệnh cụ thể (luật
pháp và trật tự dành cho giới quý tộc, hướng dẫn và giáo dục tinh thần cho giới
giáo sĩ). Theo sau các cuộc cách mạng của Pháp và Hoa Kỳ, một lý tưởng mới đã
xuất hiện: mọi người phải có các quyền pháp lý chính thức như nhau, và đặc biệt
là quyền nắm giữ tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế, khả năng tiếp cận hiệu quả đối
với tài sản phần lớn bị hạn chế ở một bộ phận dân chúng rất nhỏ. Trong suốt thế
kỷ 19 và gần như cho đến Thế chiến thứ nhất, sự tập trung của cải và sức mạnh
kinh tế vẫn ở mức cực kỳ cao. Tích lũy tài sản toàn cầu đạt mức chưa từng có
trong bối cảnh chế độ nô lệ Đại Tây Dương và các xã hội thuộc địa hậu nô lệ.
Mọi
thứ có thể diễn ra khác. Vào cuối thế kỷ 18, một số nhà tư tưởng - chẳng hạn
như Thomas Paine và Hầu tước de Condorcet - đã đề xuất thực
hiện các hệ thống đầy tham vọng về thu nhập lũy tiến và đánh thuế thừa kế để
tài trợ cho việc tiếp cận giáo dục và tài sản (ví dụ, thông qua thu nhập tối
thiểu phổ cập trong trường hợp của Paine) và bãi bỏ chế độ nô lệ mà không có
khoản bồi thường tài chính nào cho các chủ nô (hoặc thậm chí lại có khoản bồi
thường cho các cựu nô lệ trong trường hợp của Condorcet). Thật không may, sự
cân bằng quyền lực giữa các nhóm, vốn dĩ luôn đồng thời là vật chất và hệ tư tưởng,
đã không cho phép thực hiện quỹ đạo này.
Trong
suốt thế kỷ 19 và cho đến năm 1914, diễn ngôn chủ đạo phần lớn dựa vào việc
thánh hóa sở hữu: đánh thuế lũy tiến bị luận tội (theo quan điểm rằng việc mở
chiếc hộp Pandora[1] về quyền sở hữu sẽ rốt cuộc gây mất ổn định
toàn bộ trật tự xã hội, một lập luận mà chúng ta vẫn còn thấy trong các bài viết
của Hayek vào những năm
1980), và các chủ nô phải được bồi thường đầy đủ cho việc mất tài sản của họ
(theo cùng một lập luận: nếu bạn tước đoạt một chủ nô mà không phải bồi thường,
bạn sẽ làm gì với một người đã cân bằng lại danh mục đầu tư và bán nô lệ vài
năm trước?). Đây là cách những trí thức “tự do” như Tocqueville bảo vệ sự cần
thiết tuyệt đối về mặt đạo đức của việc bồi thường tài chính đầy đủ cho các chủ
nô lệ. Đây cũng là cách Haiti kết thúc việc trả một món nợ công khổng lồ cho
các cựu chủ nô người Pháp trong hơn một thế kỷ, từ năm 1825 đến năm 1950.
Mọi
thứ cuối cùng đã thay đổi trong suốt thế kỷ 20. Quyền của chủ sở hữu tài sản có
đối trọng là quyền của người lao động, người tiêu dùng và chính quyền địa
phương; sự tập trung thu nhập và tài sản đã bị hạn chế bằng cách đánh mạnh mẽ
thuế lũy tiến; và cơ hội tiếp cận giáo dục và y tế bình đẳng hơn đã được phát
triển. Điều này dẫn đến sự suy giảm bền vững của bất bình đẳng, sự gia tăng
tính di động, và sự gia tăng thịnh vượng và tăng trưởng kinh tế. Bây giờ chúng
ta biết (hoặc nên biết) rằng chìa khóa của sự thịnh vượng là giáo dục và bình đẳng
(tương đối), chứ không phải là sự thánh hóa của bất bình đẳng và sở hữu. Nhưng
phải trải qua những cú sốc lớn để những giải pháp mới này được thử nghiệm và
không may là xã hội loài người đôi khi có những ký ức ngắn ngủi.
*
DSJ: Hãy
chuyển sang thời điểm chính trị hiện tại, thời điểm trao cho Donald Trump nhiệm
kỳ tổng thống, Brexit và sự chuyển hướng toàn cầu sang chủ nghĩa dân tộc, thường
được mô tả là một phản ứng dân túy đối với việc chủ nghĩa tân tự do phá bỏ chế
độ dân chủ-xã hội. Ông không thích thuật ngữ “chủ nghĩa dân túy”. Tại sao vậy?
TP: Vấn đề là thuật
ngữ “chủ nghĩa dân túy” được dùng để chỉ những thứ hoàn toàn khác. Một số người
muốn sử dụng thuật ngữ này để chỉ Trump và Sanders ở Hoa Kỳ, hoặc Bolsonaro và
Lula ở Brazil, hoặc Le Pen và Mélenchon ở Pháp. Rất thường xuyên, thuật ngữ này
được sử dụng như một công cụ hùng biện thuận tiện bởi những người tự xưng là
thuộc cánh giữa (nhưng trên thực tế thường là những người theo chủ nghĩa tân tự do cực đoan!), những
người muốn loại trừ bất kỳ ai không đồng ý với họ và những người xoay xở để thu
hút các cử tri ở tầng lớp kinh tế xã hội thấp hơn bản thân ứng cử viên một chút
(vốn dĩ đã không phải là quá cao). Khi tôi nói về Trump và Sanders, Bolsonaro
và Lula, Le Pen và Mélenchon, tôi thích nói về chủ nghĩa dân tộc đối lập với chủ
nghĩa xã hội. Tất nhiên, có những khác biệt rất lớn trong hai hệ tư tưởng này,
cũng giống như có những khác biệt trong chính bản thân các hệ tư tưởng tự do và
tân tự do (nhân tiện, tôi muốn đề cập đến một hệ tư tưởng “tân sở hữu” hơn là
“chủ nghĩa tân tự do”, để nhấn mạnh vai trò chủ chốt của các mối quan hệ sở hữu
và để tránh những mơ hồ liên quan đến tư tưởng của chủ nghĩa tự do). Mục đích của
cuộc điều tra lịch sử của tôi là cố gắng cung cấp nội dung chính xác hơn cho những
ý tưởng này và phân tích cách chúng phát triển theo thời gian và xung quanh
chúng ta. Nhưng mấu chốt là “chủ nghĩa dân tộc” và “chủ nghĩa xã hội” dường như
là những thuật ngữ hữu ích hơn so với “chủ nghĩa dân túy”.
*
DSJ:
Trong quyển sách, ông gợi ý rằng cánh tả trên toàn cầu hiện nay trở nên bị
chi phối bởi những gì ông mô tả là sự xuất hiện của một tầng lớp tinh hoa
giáo dục Bà la môn ủng hộ sự đa dạng văn hóa. Ông nói rõ, đối thủ chính của tầng
lớp quý tộc này đã từng và đang là giới thương gia cánh hữu quan tâm đến thương
mại nhằm bảo vệ thị trường tự do. Ông lập luận rằng ông chưa trải nghiệm nền
giáo dục tinh hoa của Bà-la-môn cánh tả và ông cũng chưa trải nghiệm sự thịnh
vượng của giới thương gia cánh hữu, những người bị loại trừ, nay chuyển sang
các đảng phái theo chủ nghĩa bản địa bài ngoại. Theo ông, người Bà la môn cánh
tả và thương gia cánh hữu có thể thành lập một liên minh hoặc thậm chí một đảng
để đối đầu với các phong trào dân tộc chủ nghĩa mới ở mức độ nào?
TP: Cánh tả Bà la
môn có thể không hứa hẹn nhiều về mặt tái phân phối và các chính sách xã hội,
nhưng điều này vẫn tốt hơn so với cánh hữu thương gia, đặc biệt là theo thời
gian, cánh hữu thương gia ngày càng trở nên bài ngoại (như Trump là một ví dụ).
Khả năng hình thành một liên minh giữa các bộ phận giàu có nhất và theo chủ
nghĩa quốc tế nhất của cánh tả Bà la môn và cánh hữu thương gia tương ứng với
chiến lược mà Macron đang theo đuổi ở Pháp. Vấn đề là liên minh của giới tinh
hoa này có sức hấp dẫn rất hạn chế đối với các cử tri thuộc tầng lớp thấp và
trung lưu-thấp và cuối cùng có thể thua trong trận chiến với liên minh chủ
nghĩa bản địa bài ngoại-xã hội.
Le
Pen có thể còn lâu mới giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử quốc gia ở Pháp,
nhưng không hoàn toàn không thể là đảng của bà có thể nắm quyền kiểm soát một số
vùng trong các cuộc bầu cử địa phương năm 2021. Về lâu dài, liên minh của
Macron giữa cánh tả Bà-la-môn và cánh hữu thương gia mở đường cho một loại
Salvini[2] kiểu Pháp – Salvini là tên của cựu Phó
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Nội vụ của Ý gần đây. Vấn đề chung mà chúng ta đang phải
đối mặt là: Nếu chúng ta không mở ra những quan điểm mới về tiến bộ xã hội và
công bằng kinh tế, và nếu “những người theo chủ nghĩa trung dung tân tự do” cứ
giả vờ rằng chỉ có một chính sách kinh tế khả thi (về cơ bản là có lợi của những
người giàu có nhất), thì chúng ta có nguy cơ là cuộc thảo luận chính trị sẽ
ngày càng đề cập nhiều hơn về bản sắc, điều này sẽ tạo cơ sở chiến thắng cho những
người theo chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa bản địa bài ngoại.
*
DSJ: Ông
có rất nhiều ý tưởng về cách vượt qua sự hấp dẫn ngày càng tăng của chủ nghĩa bản
địa bài ngoại, chẳng hạn như chia sẻ quyền lực trong các công ty, thuế tài sản
lũy tiến, kế hoạch sở hữu tạm thời - ý tưởng rằng các chủ sở hữu tư nhân giàu
có nhất phải trả lại một phần những gì họ sở hữu cho cộng đồng hàng năm để tạo
điều kiện luân chuyển của cải - và làm cho EU trở nên dân chủ hơn. Tuy nhiên, vị
trí của chính trị cơ sở và các phong trào xã hội trong tầm nhìn của ông về thay
đổi xã hội, cả trong quá khứ và tương lai là gì?
TP: Thay đổi thực sự
luôn phải đến từ chính trị cơ sở và các phong trào xã hội. Tất cả những gì tôi
đang làm trong quyển sách này là cố gắng đưa vào một viễn cảnh lịch sử rộng lớn
và so sánh đối với một số diễn biến đã bắt đầu xảy ra. Thuế tài sản lũy tiến hiện
đang được một số ứng cử viên Đảng Dân chủ ở Hoa Kỳ đề xuất và Đảng Dân chủ Xã hội
Đức cũng đề xuất áp dụng lại. Mọi thứ rất khác chỉ năm hay mười năm trước. Các
ý tưởng về đồng quản lý và tăng quyền của người lao động trong hội đồng quản trị
công ty hiện đang được thảo luận ở Anh, Pháp và Hoa Kỳ, trong khi trước đây các
ý tưởng này chỉ giới hạn ở các nước như Đức và Thụy Điển. Với công dân từ khắp
châu Âu, chúng tôi cũng đã phát triển một tuyên ngôn để chuyển đổi các thể chế
châu Âu theo hướng chủ nghĩa xã
hội-liên bang. Trên toàn thế giới, chúng ta thấy các phong trào xã hội
đòi hỏi công bằng kinh tế hơn, và chúng ta cũng thấy cần phải xem xét lại việc
tổ chức toàn cầu hóa kinh tế để giải quyết những thay đổi về xã hội và môi trường.
Tất
nhiên, luôn có thể tiến xa hơn và nhanh hơn. Trong quyển sách của mình, tôi đề
xuất các khái niệm về chủ nghĩa xã hội có sự tham gia và chủ nghĩa xã hội-liên
bang để mô tả những chuyển đổi này và đưa ra quan điểm về chúng. Chủ nghĩa xã hội
có sự tham gia dựa trên hai trụ cột chính: công bằng giáo dục và luân chuyển
tài sản vĩnh viễn. Công bằng giáo dục phải hiệu quả và có thể kiểm chứng được,
điều này hoàn toàn không xảy ra hiện nay: ở nhiều nước, bao gồm cả Pháp, trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn về mặt xã hội thực sự nhận được các khoản đầu tư giáo dục
nhỏ hơn so với trẻ em có hoàn cảnh xã hội thuận lợi hơn. Việc luân chuyển tài sản
vĩnh viễn đòi hỏi kế hoạch “thừa kế cho mọi người” (để cân bằng lại sức mạnh
thương lượng trong xã hội), nhiều quyền biểu quyết hơn cho người lao động và hạn
chế việc tập trung quyền biểu quyết cho các cổ đông đơn lẻ trong các công ty lớn.
Ý tưởng cơ bản của “chủ nghĩa xã hội-liên bang” là các mối quan hệ kinh tế xã hội
giữa các quốc gia phải tuân theo các mục tiêu ràng buộc liên quan đến công bằng
xã hội, tài khóa và môi trường. Nói cách khác, bạn không thể có dòng vốn tự do
và tự do trao đổi hàng hóa và dịch vụ nếu bạn không có một hệ thống các mục
tiêu xã hội chung và có thể kiểm chứng được (mức lương tối thiểu, quyền lao động,
v.v.), công bằng tài khóa (mức thuế chung tối thiểu đối với các tác nhân kinh tế
xuyên quốc gia lớn nhất), và bảo vệ môi trường (chẳng hạn như các mục tiêu có
thể xác minh được về lượng khí thải carbon).
Sẽ mất
thời gian, nhưng tôi nghĩ rằng về lâu dài chúng ta sẽ đi theo hướng này. Vì một
lý do đơn giản: có thể dễ dàng đi theo lộ trình của chủ nghĩa dân tộc và chủ
nghĩa bản địa bài ngoại mà chúng ta thấy ngày nay với Trump, Johnson, Le Pen hoặc
Modi để được cử tri mến mộ ngay lập tức; nhưng về lâu dài sẽ không giải quyết
được các vấn đề xã hội và môi trường mà chúng ta cần giải quyết, và những vấn đề
cần giải quyết sẽ không biến mất.
*
DSJ:
COVID-19 đã khiến thế giới bị bất ngờ, và hậu quả kinh tế sắp tới của đại dịch
dường như là một cuộc khủng hoảng toàn cầu với quy mô rất khó dự đoán. Cần phải
làm gì để giải quyết tình hình một cách thỏa đáng, và khả năng của các tác nhân
chính trị và kinh tế bị hạn chế ở mức độ nào bởi các dàn xếp thể chế đã làm trầm
trọng thêm tình trạng bất bình đẳng đang gia tăng trong những năm gần đây?
TP: Thời điểm khủng
hoảng là thời điểm mà những quan niệm hiện có về nền kinh tế đang bị thách thức
và khi những quỹ đạo chính trị - tư tưởng mới có thể nảy sinh. COVID-19 minh họa một thực
tế là các cơ quan công quyền có thể chọn điều tiết các lực lượng kinh tế nếu họ
muốn. Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có thể hành động mạnh mẽ để giải quyết
tình trạng ấm lên toàn cầu hay bất bình đẳng gia tăng hay không. Cùng với gói cứu
trợ ngân hàng và tạo tiền năm 2008-2012, cuộc khủng hoảng y tế năm 2020 sẽ
thách thức những luận điệu lâu đời về tự do
kinh doanh và sẽ thúc đẩy nhu cầu xã hội về những can thiệp khác. Tuy
nhiên, hiện tại, vấn đề duy nhất là sự sống còn: chúng ta cần làm mọi cách để
tránh sự gia tăng đáng sợ về số lượng thương vong.
***
Vài dòng
về tác giả:
Thực
hiện loạt bài phỏng vấn thường xuyên với The Nation. Ông là biên tập
viên quản lý của tác phẩm Modern Intellectual History (Lịch sử Trí
tuệ Hiện đại) và là Nghiên cứu sinh Sau Tiến sĩ ở Khoa Lịch sử tại Đại
học Dartmouth. Ông đang viết một quyển sách cho Nhà xuất bản Đại học Columbia với
tựa đề Raymond Aron and Cold War Liberalism (Raymond Aron và Chủ
nghĩa Tự do trong Chiến tranh Lạnh).
Người
dịch: Lê Thị Hạnh
Nguồn:
“Thomas
Piketty: Confronting Our Long History of Massive Inequality”, The Nation,
26.3.2020.
Chú thích:
[1] Chú thích của ND: Theo thần
thoại Hy Lạp, nàng Pandora được thần Zeus dặn không được mở chiếc hộp kỳ bí.
Nhưng vì tò mò, Pandora đã mở hộp và khiến cho bất hạnh tràn ngập khắp thế
gian: thiên tai, bệnh tật, chiến tranh…↩
[2] Chú thích của ND: Noi con
Salvini (Chúng ta với Salvini) cũng là tên của một đảng chính trị dân túy ở Ý.↩
No comments:
Post a Comment