Vì
sao Việt Nam nên phát triển điện gió ngoài khơi?
Báo Công
Thương
16:57 | 28/01/2021
https://congthuong.vn/vi-sao-viet-nam-nen-phat-trien-dien-gio-ngoai-khoi-151631.html
Một dự án điện gió
ngoài khơi
Theo báo cáo 'Lộ trình
gió ngoài khơi tại Việt Nam' của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam có tiềm năng đạt
được công suất gió ngoài khơi từ 11GW đến 25GW cho đến năm 2035, có thể tạo ra
tới 700.000 việc làm mỗi năm và giảm thiểu được 217 triệu tấn khí thải CO2. Tốc
độ gió tốt được tìm thấy ở xa hơn và dọc theo bờ biển, đặc biệt ở khu vực ngoài
khơi tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận. Việt Nam cũng có công nhân lành nghề ở khu
vực ngoài khơi, năng lực sản xuất mạnh mẽ, hạ tầng kỹ thuật dọc các bờ biển
cũng đã được quan tâm đầu tư đáng kể.
Điện gió ngoài khơi là một
công nghệ đã được chứng minh và giúp giảm chi phí đáng kể ở châu Âu, nơi các dự
án điện gió ngoài khơi được thực hiện trên quy mô lớn. Mô hình này cũng cung cấp
một nguồn năng lượng với chi phí xây dựng rẻ hơn so với các dạng năng lượng
khác như than đá, hạt nhân và khí đốt.
Vậy như thế nào thì được
gọi là điện gió ngoài khơi? Các trang trại điện gió ngoài khơi nằm cách bờ biển
hơn 5 km trong vùng nước sâu hơn 10m. Các dự án điện gió ngoài khơi sử dụng các
tuabin rất lớn (tuabin công nghệ mới nhất có công suất lên tới 14MW) và quy mô
lớn hơn (lên đến vài GW). Công suất lớn và khoảng cách đến bờ thường yêu cầu
các trạm biến áp và cáp chuyên dụng để vận chuyển điện lên lưới. Các tuabin
gió, thiết kế nền móng, phương pháp lắp đặt và chuỗi cung ứng được tùy chỉnh
theo các điều kiện ngoài khơi. Gió xa bờ không cùng chuỗi cung ứng với gió thủy
triều/gần bờ. Do quy mô lớn, tương đương với một nhà máy điện khí LNG, chi phí
đầu tư trang trại điện gió ngoài khơi cao hơn và cần có nguồn tài chính quốc tế.
Điện gió ngoài khơi đang
được triển khai tại các thị trường gần Việt Nam như Đài Loan, Nhật Bản, Trung
Quốc và Hàn Quốc. Điều này sẽ dẫn đến một chuỗi cung ứng hoàn thiện và giảm chi
phí trong khu vực châu Á, mà Việt Nam có thể đạt được lợi ích từ đó.
Các chuyên gia quốc tế
cho rằng, sự kết hợp giữa các yếu tố luồng gió mạnh, vùng nước nông, các thành
phố gần bờ biển, bến cảng hiện có và công nhân lành nghề của Việt Nam là điều
kiện lý tưởng cho điện gió ngoài khơi. Việt Nam nắm giữ vị trí độc nhất vô nhị
để theo đuổi điện gió ngoài khơi như một nguồn năng lượng an toàn và là một phần
quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch.
Hiện tại, chưa có trang
trại điện gió ngoài khơi nào thực sự được hình thành ở Việt Nam. Phát triển điện
gió của Việt Nam tập trung vào các khu vực ven bờ và bãi triều / gần bờ. Đây là
những điển hình thường thấy ở một thị trường mới đang trong giai đoạn đầu áp dụng
năng lượng gió tái tạo làm nguồn điện, vì các trang trại điện gió trên bờ và
bãi triều / gần bờ có quy mô nhỏ, dễ tài trợ hơn và có thời gian phát triển ngắn
hơn. Ví dụ, Đan Mạch và Trung Quốc lần đầu tiên bắt đầu phát triển điện gió ở
khu vực thủy triều và gần bờ trước khi chuyển sang điện gió ngoài khơi.
Các trang trại gió vùng bãi triều/gần bờ nằm
trong khu vực thủy triều hoặc cách bờ biển vài km, nơi nước rất nông. Các dự
án điện gió ở khu vực này có xu hướng sử dụng các tuabin nhỏ hơn (mỗi tuabin
thường có công suất dưới 4MW), quy mô nhỏ hơn (thường dưới 200 MW) và thường
nằm gần lưới điện. Các dự án có thể có nền móng tùy chỉnh nhưng nhìn chung có
thiết kế tương tự như các trang trại điện gió trên bờ. Do quy mô nhỏ hơn nên
những dự án điện gió ở khu vực này có chi phí đầu tư thấp hơn và có thể được
tài trợ tại địa phương. |
Ở các quốc gia khác, động
lực chính để di chuyển các dự án điện gió ra xa bờ là chất lượng của gió, không
gian sẵn có, quan ngại về môi trường và tránh xung đột với các cộng đồng ven biển
và người sử dụng biển.
Tại Việt Nam, gió ngoài
khơi cũng mang lại những lợi ích tương tự. Các dự án điện gió ngoài khơi thực sự
sẽ ở những khu vực có tốc độ gió cao hơn và ổn định hơn, hướng tới sản xuất
năng lượng nhất quán và hiệu quả hơn. ‘Đất’ xa bờ có nhiều hơn ‘đất’ bãi triều/gần
bờ - khu vực bị giới hạn bởi thủy triều và độ sâu của nước. Các trang trại gió
ngoài khơi có khả năng ít tác động đến môi trường hơn, vì có ít đa dạng sinh học
hơn ở các vùng nước sâu hơn. Các trang trại gió ngoài khơi cũng có ít tác động
đến thị giác và tiếng ồn hơn, và sẽ ít ảnh hưởng tới những người hoạt động trên
biển như vận tải biển, đánh cá và du lịch...
Cho đến nay, sự phát triển
của điện gió bãi triều/gần bờ ở Việt Nam đã được thúc đẩy bởi các chính sách của
Chính phủ, trong đó có biểu giá cố định (FIT). Tại thời điểm này, không có định
nghĩa chính thức hoặc chính sách cụ thể cho các dự án điện gió ngoài khơi thực
sự ở Việt Nam. Để điện gió ngoài khơi thành công ở Việt Nam, cần phải có một
chính sách chuyên biệt tương tự. Điều này là do các đặc tính của gió ngoài khơi
khác hẳn với gió bãi triều/gần bờ và chuỗi cung ứng cần có một bước khởi đầu.
BẢNG SO SÁNH ĐẶC ĐIỂM CỦA
ĐIỆN GIÓ BÃI TRIỀU/GẦN BỜ VỚI ĐIỆN GIÓ NGOÀI KHƠI :
Các đặc điểm của điện gió bãi triều/gần bờ
Các đặc điểm của điện gió ngoài khơi
Để khai thác tiềm năng to
lớn của điện gió ngoài khơi ở Việt Nam, các nhà phát triển đang kêu gọi Chính
phủ đảm bảo cho ngành, điều này sẽ cho phép họ đầu tư phát triển. Chính phủ có
thể thực hiện bằng cách thiết lập các mục tiêu về điện gió ngoài khơi cũng như
chính sách dành riêng cho điện gió ngoài khơi.
Theo Hội đồng Năng lượng
Gió Toàn cầu (Global Wind Energy Council - GWEC), thế giới đang đón nhận điện
gió ngoài khơi - công suất gió ngoài khơi toàn cầu sẽ tăng từ 29GW vào năm 2020
lên hơn 234 GW vào năm 2030, dẫn đầu bởi sự tăng trưởng theo cấp số nhân ở Châu
Á - Thái Bình Dương và tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ ở Châu Âu. Các quốc gia
khác khởi đầu từ chính sách cho điện gió bãi triều/gần bờ như Đan Mạch và Trung
Quốc cũng đã hoàn toàn chấp nhận điện gió ngoài khơi. Cũng giống như các thị
trường này, Việt Nam có cơ hội tận dụng các điều kiện ven biển, đạt được an
ninh về cung cấp năng lượng, tạo việc làm và cung cấp năng lượng điện gió sạch
ngoài khơi trong những năm tới.
No comments:
Post a Comment