Làm
thế nào cứu nền dân chủ khỏi nguy cơ độc tài kỹ thuật số?
HUỲNH MINH TRIẾT - LUẬT
KHOA
28/01/2021
https://www.luatkhoa.org/2021/01/lam-the-nao-cuu-nen-dan-chu-khoi-nguy-co-doc-tai-ky-thuat-so/
Các chuyên gia đề
xuất một giải pháp khác để chấm dứt tình trạng Big Tech độc quyền thông tin.
Ảnh: AFP/ Getty
Images.
Việc các hãng công nghệ lớn,
thường gọi là Big Tech, đồng loạt tẩy chay cựu Tổng thống Donald Trump làm dấy
lên tranh luận vốn có từ lâu về nguy cơ của độc tài kỹ thuật số đối với nền dân
chủ.
Nhưng những khó khăn của
việc kiềm chế Big Tech và giải pháp khả thi nhất là gì? Francis Fukuyama, Barak
Richman, và Ashish Goel trình bày góc nhìn khá toàn diện trong bài viết “How to Save Democracy From Technology“, đăng trên tạp chí
Foreign Affairs vào ngày 24/11/2020.
Francis
Fukuyama là giáo sư ngành khoa học chính trị tại Đại học Stanford. Ông
là tác giả quyển sách nổi tiếng “The end of history and the last man” cùng nhiều
nghiên cứu khác về triết học chính trị và quan hệ quốc tế.
Barak Richman là
giáo sư luật tại Đại học Duke Law. Ông chuyên nghiên cứu về luật chống độc quyền,
các chính sách kinh tế và chăm sóc sức khỏe.
Ashish Goel là
giáo sư ngành khoa học và kỹ thuật quản trị tại Đại học Stanford. Ông chuyên
nghiên cứu về thiết kế, phân tích và các ứng dụng của thuật toán.
Dưới đây là tổng hợp những
nội dung chính từ phân tích của ba chuyên gia trong bài viết đăng trên Foreign
Affairs.
Khó khăn trong việc
kiềm chế Big Tech
Ở Mỹ vào thời điểm hiện
nay, Big Tech đã trở thành đối tượng mà ai cũng có thể chỉ trích. Tuy vậy, công
cụ để kiềm chế các công ty này hiện chưa tồn tại. Gần như chỉ một thứ duy nhất
có thể thách thức các Big Tech: Luật chống độc quyền.
Luật chống độc quyền của
Mỹ có gốc rễ từ những năm 1970, thời kỳ các tư tưởng kinh tế tự do tuyệt đối
bùng nổ. Robert Bork, tổng biện lý sự vụ (solicitor general) thời đó lập luận rằng
luật chống độc quyền chỉ nên có một mục đích: tối đa hóa lợi ích của người tiêu
dùng. Theo ông, luật này phải bị giới hạn chặt chẽ để đảm bảo công bằng cho cả
công ty và người tiêu dùng.
Ông cho rằng lý do một số
công ty vươn lên thống trị thị trường là vì họ hoạt động hiệu quả hơn đối thủ cạnh
tranh. Nếu bắt ép chia nhỏ các công ty này thì không khác gì trừng phạt họ vì
đã dám thành công.
Mark Zuckerberg,
CEO của Facebook, điều trần trước Quốc hội Mỹ, tháng 7/2020. Ảnh: Reuters.
Tuy vậy, ngày nay, sự thống
trị của các Big Tech như Google, Apple, Amazon, Facebook và Twitter đặt ra một
nguy cơ mới. Trong khi khó có thể lập luận rằng các tập đoàn khổng lồ này thu hẹp
lợi ích kinh tế của người dùng, một vấn đề rõ ràng là quyền lực của Big Tech
đang ảnh hưởng đến lợi ích chính trị của người dân. Quyền lực đó đe dọa nền dân
chủ.
Mối đe dọa từ Big
Tech
Kể từ cuộc bầu cử năm
2016, người ta đã thấy rõ sức mạnh chính trị khủng khiếp của những công ty công
nghệ. Những công cụ đầy ảnh hưởng được Big Tech bày sẵn đã bị sử dụng cho mục
đích xấu. Những kẻ truyền bá thuyết âm mưu, tư tưởng cực đoan và tin giả lộng
hành trên các nền tảng mạng xã hội. Họ có thể tập hợp một lượng người theo dõi
khổng lồ và tìm cách thao túng suy nghĩ của đám đông đó.
Nguy hiểm hơn, các thuật
toán trên các nền tảng này khiến người dùng, một cách vô thức, tiếp xúc nhiều
nhất với những thông tin xác nhận niềm tin có sẵn của họ. Khác với việc người
xem tự bật TV và tìm đến Fox News hay CNN, những luồng thông tin âm thầm và tự
nhiên xuất hiện trên “news feed” (các bài viết trên mạng xã hội) của một người
có thể ảnh hưởng lớn đến quyết định bỏ phiếu của người đó. Nguy cơ lớn nhất mà
người ta lo sợ là các tập đoàn công nghệ thâu tóm được nhiều quyền lực đến mức
có thể làm thay đổi kết quả một cuộc bầu cử, dù hữu ý hay vô tình.
Nhiều ý kiến chỉ trích đã
yêu cầu Big Tech tự kiểm soát tốt hơn các nội dung liên quan đến chính trị. Một
số đòi Twitter xóa bỏ hoặc gắn cờ cảnh báo vào các dòng tweet sai lệch của ông
Trump. Số khác tức giận khi Facebook tuyên bố sẽ không kiểm duyệt nội dung
chính trị. Hầu như tất cả đều mong muốn các nền tảng mạng Internet này tự hành
xử như những công ty truyền thông: giám sát nội dung chính trị và bắt quan chức
chịu trách nhiệm.
Tuy vậy, đây không phải
là một giải pháp lâu dài. Để ngỏ cho các Big Tech tự hành động dựa trên
lương tri chủ quan của họ đặt ra rủi ro “tha hóa tuyệt đối” khi họ nắm trong
tay quyền lực tuyệt đối.
Các giải pháp hiện
có
Thứ nhất là ra thêm luật
lệ, quy định. Một ví dụ là nước Đức. Các nhà lập pháp tại đó đã thông qua luật
hình sự hóa hành vi phổ biến tin giả trên mạng xã hội. Tuy vậy, phương án này
khó khả thi ở một quốc gia chia rẽ và phân hóa như Mỹ.
Vào năm 1987, Ủy ban Truyền
thông Liên bang Mỹ (FCC) đã phải rút lại một quy định thường được gọi là
“fairness doctrine”. Được đưa ra từ năm 1959, quy định này yêu cầu các đài truyền
hình phải đưa tin chính trị một cách “cân bằng”. Đảng Cộng hòa liên tục chỉ
trích yêu cầu này, cho rằng nó thiên vị chống lại phe bảo thủ. Ngày nay, giả sử
có một quan chức nào đó được giao trách nhiệm xem xét cấm hay không một dòng
tweet của tổng thống, bất kể quyết định ra sao cũng sẽ dẫn đến tranh cãi quyết
liệt.
Một trong những người
biểu tình bên ngoài nhà riêng của CEO Facebook Mark Zuckerberg tại San
Francisco vào cuối tháng 11/2020. Nhiều người cáo buộc mạng xã hội này tiếp tay
lan truyền tin giả và phá hoại nền dân chủ. Biểu ngữ trong hình yêu cầu chia nhỏ
Facebook. Ảnh: AP Photo/ Jeff Chiu.
Giải pháp thứ hai là chia
nhỏ các Big Tech để tạo ra một môi trường cạnh tranh sôi nổi, với nhiều công ty
cùng hoạt động hơn. Tuy vậy, giải pháp này cũng khó khả thi. Dù các Big Tech
đang bị kiện với yêu cầu tách nhỏ ra, quá trình giải quyết các vụ kiện này phải
mất nhiều năm, nếu không muốn nói là cả chục năm. Hơn nữa, với đặc thù riêng biệt
của nền tảng số, không ai dám chắc một nhánh tách ra từ Facebook không nhanh
chóng vươn lên, đè bẹp các đối thủ và chiếm lại vị thế cũ.
Giải pháp thứ ba là trả lại
quyền sở hữu dữ liệu cho người dùng, hay còn gọi là “data portability”. Tương tự
với việc người dùng có quyền giữ nguyên số điện thoại khi đổi sang một nhà mạng
mới, ý tưởng ở đây là người dùng được quyền kiểm soát và chuyển toàn bộ dữ liệu
cá nhân của mình từ nền tảng này sang nền tảng khác. Việc này được kỳ vọng sẽ
giúp tăng tính cạnh tranh cho thị trường, khi người dùng có thể tùy nghi lựa chọn
chuyển đổi giữa các nền tảng khác nhau và đem theo dữ liệu của mình – thứ vốn
dĩ là tài sản có giá trị nhất đối với các công ty kỹ thuật số.
Tuy vậy, có nhiều vấn đề
đối với giải pháp này. Hiện nay các Big Tech không chỉ sở hữu ảnh, video, các
dòng trạng thái và bình luận của người dùng mà họ còn nắm được các thông tin
siêu dữ liệu (metadata). Siêu dữ liệu bao gồm thông tin về việc bạn tìm kiếm
gì, vào trang web nào, dừng lại ở một bài viết bao lâu, các cú click chuột,
thao tác like, share, mua sắm, đánh giá, v.v. Các công ty kiếm được tiền (như
doanh thu quảng cáo) là nhờ vào những siêu dữ liệu trên. Chưa có luật lệ nào
quy định ai là chủ sở hữu những siêu dữ liệu. Ngoài ra, các siêu dữ liệu này hiện
rất đặc trưng cho mỗi nền tảng, không thể dễ dàng chuyển từ chỗ này sang chỗ
khác.
Một giải pháp nữa là siết
chặt luật về quyền riêng tư, cấm các công ty đem dữ liệu người dùng thu gom được
ở mảng này sang mảng khác để tiếp tục bành trướng. Về lý thuyết thì việc này sẽ
vừa giúp bảo vệ quyền riêng tư, vừa đảm bảo tính cạnh tranh của thị trường.
Trên thực tế, nó cũng có nhiều vấn đề. Tương tự như giải pháp thứ ba, chưa có
quy định rõ ràng về việc dữ liệu người dùng có bao gồm siêu dữ liệu hay không.
Ngay cả khi đã xác định được thì việc đến bây giờ mới ra lệnh cấm cũng giống
như đóng cửa khi con ngựa đã chạy ra khỏi chuồng. Nó không làm các ông lớn công
nghệ mất đi sức ảnh hưởng đang có với lượng người dùng và dữ liệu khổng lồ mà họ
đã sở hữu. Hơn thế, một lệnh cấm như vậy cũng sẽ khiến các công ty mới gia nhập
thị trường không cách nào cạnh tranh nổi với những kẻ đã đến trước này.
Vậy giải pháp khả
thi nhất là?
Theo các tác giả, giải
pháp khả thi nhất là sử dụng “middleware”. Đây là một loại phần mềm dạng như phần
mở rộng (plug-in), được cài chồng lên các nền tảng của các hãng công nghệ lớn.
Middleware đã được
sử dụng phổ biến từ lâu trong các hoạt động quản lý thông tin. Các chuyên gia đề
xuất áp dụng ý tưởng này cho việc quản lý nội dung trên các nền tảng của Big
Tech. Ảnh: tiendadigital.co.uk.
Middleware (có thể hiểu
nghĩa đen là phần mềm trung gian) sẽ trao quyền điều chỉnh hiển thị nội dung
cho người dùng, tương tự như chiếc điều khiển tivi giúp bạn chuyển từ Fox News
sang CNN. Thay vì bị động chịu ảnh hưởng của các thuật toán mờ ám mà các Big
Tech ít lâu lại thay đổi một lần, người dùng sẽ được phép tự đánh giá nguồn
tin, mức độ quan trọng và tần suất xuất hiện. Các công ty cung ứng giải pháp
middleware có thể cung cấp dịch vụ kiểm chứng và dán các nhãn “tin giả”, “tin
chưa kiểm chứng”, hoặc “đã kiểm chứng” vào các nội dung chính trị.
Chẳng hạn, khi người dùng
vừa đăng nhập vào Facebook hay Twitter, họ sẽ thấy ngay các nhãn cảnh báo này
trên các dòng tweet. Ở Google và Youtube thì middleware sẽ giúp điều chỉnh xếp
hạng tìm kiếm và đề xuất video. Các middleware phải vận hành theo những quy chuẩn
minh bạch về thuật toán, các tính năng kỹ thuật để người dùng có đủ thông tin
trước khi ra quyết định.
Tất nhiên, các tác giả
cũng thừa nhận rằng đây mới chỉ là một giải pháp tiềm năng và còn rất nhiều vấn
đề cần giải quyết. Một vấn đề lớn là làm sao cân bằng được quyền lực của các
middleware và các nền tảng của Big Tech để không ai hoàn toàn nắm quyền quyết định
nội dung nào đến được với người dùng.
Quốc hội Mỹ có thể cần ra
luật nhằm yêu cầu các Big Tech mở cánh cửa kỹ thuật để các công ty cung cấp
middleware được tiếp cận và hoạt động. Ngoài ra, Quốc hội cũng phải có cơ chế
điều chỉnh để middleware thỏa mãn các tiêu chuẩn tối thiểu về tính minh bạch, sự
tin cậy và độ nhất quán.
Tóm lại, dẫu còn nhiều vấn
đề và trở ngại, các tác giả tin rằng sử dụng middleware có thể giúp lấy lại quyền
lực từ Big Tech, tạo ra một thị trường mới mẻ và đầy tính cạnh tranh.
Với các phần mềm trung
gian này, người dùng mới là người quyết định những gì họ nhìn thấy, chứ không
phải các thuật toán trí tuệ nhân tạo mờ ám.
No comments:
Post a Comment