ĐÀN
BÀ VIỆT NAM - HAI VAI HAI GÁNH
https://www.facebook.com/kim.ngo.7739/posts/3977235205621608
Đọc GÁNH GÁNH GỒNG GỒNG,
hồi ký của Nữ đạo diễn Xuân Phượng, NXB Văn hóa Văn nghệ, tháng 9/2020
(Đăng trên NGƯỜI ĐÔ THỊ số
TẾT TÂN SỬU 2021)
Đọc xong chữ cuối cùng,
người ta sẽ đặt sách xuống và bần thần tự hỏi: Cái gì đã khiến người đàn bà này
có những quyết định làm xáo trộn cuộc đời mình như vậy? Có phải chuyện đã manh
nha từ những suy nghĩ ngây thơ trong trẻo của cô tiểu thơ lãng mạn đầy từ tâm,
hay còn có điều gì khác?
Bởi, nếu không có cái
ngày tháng sáu năm 1945 định mệnh ấy, khi cô nữ sinh mười sáu tuổi “theo đuôi”
người cậu trốn nhà, tìm tới tổ chức Học sinh Cứu quốc Huế, thì cuộc đời cô đã
diễn biến theo chiều ngược lại với những gì trong sách. Cô sẽ hoàn tất ban tú
tài, nhận một công việc lương bổng cao, gia nhập vào tầng lớp trí thức sang trọng,
lấy một người chồng môn đăng hộ đối, sinh con đẻ cái và hưởng thụ cuộc đời
phong lưu nhàn nhã với người hầu kẻ hạ.
Nhưng nếu mọi việc diễn
ra như vậy, sẽ không thể có nữ đạo diễn Xuân Phượng và quyển sách mà bà đã chấp
bút kể lại đời mình, như công việc không thể không làm ở tuổi chín mươi: Gánh
gánh gồng gồng.
Cái quang gánh cồng kềnh
kẽo kẹt giống như một định mệnh, cứ dính chặt lấy đôi vai mỏng mảnh của người
đàn bà Việt: thời bình thì gánh hàng ra chợ, gánh mạ ra đồng, gánh lúa về nhà…;
thời chiến thì gánh gạo gánh con chạy loạn… Và với những người như Xuân Phượng,
bà còn gánh cả một phần nước non trên đôi quang gánh nhỏ của mình, hai vai hai
gánh.
Cô tiểu thơ lần đầu ra khỏi
nhà cha mẹ, phải lập tức thích nghi với cảnh sống đói ăn thiếu mặc, nhưng như tất
cả những sinh viên học sinh một lòng ra đi để Giành-Lại-Độc-Lập-Cho-Đất-Nước,
cô không hề lưu tâm. Bởi ở đó, cô đã gặp được chàng trai đánh động trái tim
mình, một học sinh chung chiến hào chống Pháp. Họ tự biến mình thành những
tuyên truyền viên chống xâm lược, giáo viên xóa mù cho đồng bào, diễn viên tự
biên tự diễn trên các sân khấu phục vụ cộng đồng…
Những rung động mạnh mẽ của
tuổi mười bảy khiến cuộc lên đường Giành-lại-độc-lập-cho-đất-nước càng thêm đẹp
đẽ, náo nức. Vậy mà, đáng ra sẽ thành chồng thành vợ trọn đời bên nhau, họ lại
phải đứt ruột chia lìa. Chỉ vì “Anh là con một. Nếu anh đi theo kháng chiến thì
em phải ở nhà chăm lo cho thầy mẹ…”. “Em rất tiếc, không thể được…”. “Nếu như vậy
anh phải đồng ý kết hôn với một người khác do bố mẹ anh đã lựa”…
Sau đêm thức trắng để
chuyện trò dằn vặt rồi chia tay tình đầu, cô mang trái tim tan nát về lại nơi
làm việc, để hứng trận đòn-ghen-trả-thù của thủ trưởng, bác sĩ giám đốc quân y
vụ liên khu 4. Bị nhốt vào chuồng trâu, bỏ đói để buộc phải hạ mình, cô cảm thấy
bị xúc phạm cùng cực và tuyệt vọng tới mức quyết nhịn ăn để tìm cái chết.
Nên khi được thả ra, cô
đã cắt phăng mái tóc dài đẫm mùi phân trâu, thả trôi trên dòng suối, để bằng
cách đó, cô đoạn tuyệt với quãng đời cũ, con người cũ. Dứt bỏ suối tóc dài thân
thuộc và từ đó không nuôi tóc lại, cô nữ sinh Huế hiểu rằng, phải có đủ sức mạnh
để một mình đi về phía trước, không còn người yêu dấu kề bên.
Cô đã làm được như vậy,
tiếp tục hành trình yêu nước ở một lĩnh vực khác, trong quân đội: sản xuất mìn
nổ chậm, mìn hẹn giờ…
Những hướng dẫn trong
sách hóa mà cô nhớ đinh ninh: “Hai gramme fulminate = một mạng sống”. Khi tham
gia vào công việc cực kỳ nguy hiểm này, cô nhận thức được rằng, sự sống của con
người quá đỗi mong manh, cái chết luôn sát kề chỉ trong gang tấc. Nhưng chính
trong thời gian căng thẳng mà ngập tràn tình đồng đội này, cô tình cờ nhặt được
quyển từ điển Larousse cũ nát, và đã mày mò luyện thêm tiếng Pháp, bổ sung kiến
thức, nhờ đó mà sau này, cô có thêm nhiều cơ hội khi lựa chọn nghề nghiệp.
Rồi cô chứng kiến tai nạn
kinh hoàng xảy ra với đồng đội: “Trí run rẩy đưa lên một cánh tay đã mất hẳn
bàn tay, máu trào ra. Chúng tôi xúm lại, người băng bó vết thương, người chuẩn
bị đò để đưa đi bệnh viện. Bỗng có vài giọt máu từ trên cao nhỏ xuống, tôi nhìn
lên. Ba ngón tay của Trí còn dính vào một sợi dây điện, xanh tái và nhầy nhụa
máu. Tôi ngất đi…”. Và: “Khi tỉnh dậy… Anh Hoàng đưa cho tôi ly nước. Tôi run rẩy,
không nói nên lời. Rồi cứ thế, nước mắt tuôn ra…”.
Và trái tim cô lại thức dậy
trước những chăm sóc tận tụy của chàng sinh viên dòng dõi hoàng tộc, có cha là
thượng thư bộ Lễ triều đình Huế, đã cùng hai em rời bỏ ngôi biệt thự bên bờ
sông Hương, tham gia kháng chiến.
Họ đã trở thành chồng vợ
giữa chốn núi rừng, không có mặt gia đình hai bên.
Đứa con đầu lòng đã chào
đời trong một tình cảnh quá đỗi bi thương. Buổi tối, chồng cô phải bơi qua ba
con suối dữ để về thăm vợ trước khi sang Trung Quốc công tác. Vào lúc rạng
sáng, cô chuyển bụng. Trong bóng tối đường rừng, mọi người khiêng cô trên võng
chạy thập thõm suốt bảy cây số để tìm đò vượt sông Lô vào bệnh viện. Đưa được vợ
lên đò, chồng cô chỉ bảo “Thôi em cố gắng, anh phải đi ngay sáng nay mất rồi”.
“Em ở một mình sao?”… Anh thở dài, rồi nhảy vọt lên bờ…
“Mới hai mươi tuổi đầu, đẻ
con so, xung quanh không có ai. Tôi muốn chết. Tôi bò đến sát mạn thuyền và chuẩn
bị nhảy xuống sông. Một tay vừa chạm vào làn nước lạnh buốt, bỗng một cái đạp mạnh
làm bụng tôi nhói lên. Tội bừng tỉnh: Mình chết nhưng đứa con có tội tình
gì?...”… Cuối cùng, đứa bé trai không chờ tới bệnh viện, đã lọt lòng mẹ ngay
trên con đò, được bác lái đò cắt rún bằng một mảnh nứa.
Không có gì ăn, không đủ
sữa nuôi con, người mẹ trẻ học cách của đồng bào Cao Lan, cuốc đất trồng rau, sắn,
bắp… để có cái bỏ vào bụng. Buổi tối sau giờ làm việc, cô đốt bốn cây đuốc nứa
cắm bốn bên để đề phòng cọp, và với đứa con nhỏ địu sau lưng, cô cắm đầu cuốc đất,
sương đêm rơi ướt cả đứa con… Khi con nhỉnh hơn, cô mang vào nơi làm việc, lấy
dây rừng buộc chân con vào bàn, để con bò lê trên đất chơi với các bạn cùng
hoàn cảnh.
Chồng là lính cứ biền biệt
xa nhà, cô một mình xoay xở, chạy vạy để nuôi con. Tiểu thư Huế đã biết trồng
thuốc lá, để “những ngày chủ nhật tôi theo bà con dân tộc đem bán dọc đường.
Tôi ngồi bên đường câm lặng, quần áo rách rưới, tay chân nứt nẻ, đầu tóc rối
bù, nét mặt xanh xao, chờ người qua lại…”.
Rồi cô lại chuyển công
tác, ra khỏi quân đội, bởi việc sản xuất vũ khí quá nguy hiểm cho người đàn bà
có con mọn. Rồi dồn dập bao nhiêu thay đổi lớn, trên khắp chiến trường… Với khẩu
hiệu Tất cả cho Điện Biên Phủ, mỗi tháng gia đình cô chỉ còn nhận được 8 ký gạo
thay vì 13 ký…
Rồi chiến thắng. Quá tưng
bừng, quá vui sướng. Tất cả mọi người trong cơ quan lũ lượt rời Tuyên Quang về
Hà Nội. Chồng cô bận rộn với cuộc duyệt binh lớn mừng chiến thắng ở thủ đô,
không thể quay lên đón gia đình. Ba mẹ con cô “trơ trọi bên nhau trong gian nhà
tranh hẻo lánh trên đồi” .
Không một xu dính túi, cô
phải tự tìm cách mang con về Hà Nội. “Một bên đòn gánh là cái thúng với ba con
gà trong lồng và cái xoong khuấy bột. Đầu bên kia Phước ngồi với một túi quần
áo. Tôi địu cháu Phương sau lưng…”. Cứ vậy, gánh cả gia đình trên vai, cô lê từng
bước trên con đường vắng teo dài dằng dặc, có khi bị lạc trong rừng đêm, giữa bầy
đom đóm. “Tìm một gốc cây to, tôi leo lên buộc dây chằng xuống giữ hai con với
cái lồng gà và nằm thiếp đi. Có lúc tỉnh choàng dậy, trời vẫn còn đầy sao. Trời
càng về sáng càng buốt lạnh, áo quần ướt đẫm sương, tôi lại thất thểu ra đi…”.
Có lẽ những khổ ải cô chịu
đựng đã động tới lòng trời, nên khi vừa nhìn thấy cổng ngôi chùa cổ ở gần con
đường nhựa, cô chỉ còn đủ sức chắp tay khấn: “Cầu Trời Phật giúp đỡ cho con” rồi
ngã gục luôn.
“Tội nghiệp đứa ăn mày với
hai con”, những bà chủ Hàng Ngang-Hàng Đào đang đi viếng chùa kêu lên khi trông
thấy tình cảnh ba mẹ con. Họ đã cho mẹ con cô ăn uống để hồi sức, cho ngồi
chung xe để cùng về Hà Nội, và qua cuộc chuyện trò, mới hay rằng đứa ăn mày
suýt chết đói kia chính là con gái ông bà đốc Cán quen biết ngày nào…
Năm 1954, chiến tranh chấm
dứt. Hòa bình, nghĩa là sẽ không còn chết chóc, khổ đau, mọi chuyện rồi sẽ tốt
đẹp. Ai cũng nghĩ một cách mừng vui như vậy. Nhưng, đói nghèo cũng là một thứ
giặc. Chiến tranh đã hút cạn kiệt sinh lực của dân tộc. Cái nghèo kéo dài, dai
dẳng, gặm nhấm mọi thứ… Hà Nội đón những người kháng chiến và những người kháng
chiến hòa nhập lại vào đời sống đô thị, biết bao con người đã chịu thử thách,
phải tự xác định lại giá trị bản thân mình…
Được cấp một căn phòng mười
bốn mét vuông tối om không có cửa sổ, gia đình năm người của cô đã trải qua ba
mươi hai năm sống chung với mù mịt khói mùn cưa nấu ăn trong tiếng loa phường
ra rả, cộng thêm việc luôn phải xếp hàng dài để chờ tới phiên được vào nhà vệ
sinh. Nhà quá chật, chồng cô phải ở lại nơi làm việc, không khác hồi chiến
tranh.
Người mẹ ba con từng bỏ dở
việc học ở tuổi mười sáu giờ phải quay lại trường, lấy tấm bằng trung học. Bốn
năm đèn sách ở trường đào tạo y sĩ đã đưa cô tới phòng khám Nhi khu Ba Đình với
chức vụ trưởng phòng. Công việc quá nhiều, quá đa dạng, chưa kể nỗi buồn, nỗi bất
lực vì không thể chữa lành cho bệnh nhân khi không có đủ thuốc. Cô kiệt sức,
không kham nổi gánh nặng.
Nên cô lại chuyển sang
phòng khám của Ủy ban Liên lạc với Nước ngoài. Chính ở đây, cô được gặp nhiều vị
khách nổi tiếng, tìm đến ủng hộ Việt-Nam đang chiến-tranh-chống-Mỹ. Một trong
những người khách đó là nhà điện ảnh Pháp Joris Ivens và vợ, Marceline Loridan.
Với nhiệm vụ phiên dịch và chăm sóc sức khỏe cho khách, cô đã chia sẻ cùng họ
hành trình hai mươi tám ngày chạy xe từ Hà Nội vào Vĩnh Linh dưới bom Mỹ, và chứng
kiến bao cái chết bi thảm cũng như tinh thần không thể bị bẽ gãy của người dân
suốt hai tháng thực hiện bộ phim Vĩ tuyến 17- Chiến tranh nhân dân.
Những điều trông thấy, cảm
nhận trong thời gian làm phim đã đánh thức trong cô những hồi ức thẳm sâu từ
quá khứ kháng chiến, làm nảy sinh trong cô một khao khát. Vậy là, cô từ bỏ
chuyên môn ngành y của mình, chuyển sang Xưởng phim Vô tuyến Truyền hình để tập
sự làm biên kịch.
Với sự giúp đỡ tận tình của
các đàn anh và bè bạn, cộng với việc tự rèn luyện một cách nghiêm khắc và hào hứng,
cuối cùng cô đã được thừa nhận trong nghề đạo diễn, qua những bộ phim được giải
thưởng lớn, của cả quốc tế và trong nước. Với những hoạt động văn hóa nghệ thuật
kết nối Việt Nam và các nước sau khi nghỉ hưu, cô được nhận Huân chương Hiệp sĩ
Bắc đẩu Bội tinh của chính phủ Pháp.
Tháng 3/1975, nữ đạo diễn
Xuân Phượng là một trong những nhà làm phim đầu tiên có mặt ở các thành phố miền
nam, từ Huế tới Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn…
Cuộc tái ngộ quê hương
sau gần ba mươi năm là phần thưởng lớn nhứt của cuộc đời bà. Những thước phim
quý giá quay suốt duyên hải miền trung về những ngày cuối cùng của cuộc chiến,
cho tới buổi lễ chuyển giao ngày 2 tháng 5 năm 1975 ở Dinh Độc Lập, là tài sản
nghề nghiệp quý giá không phải nhà làm phim nào cũng có được.
Những phát biểu để đời của
tướng lãnh hai bên trong buổi lễ bàn giao:
Tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch
Ủy ban Quân quản thành phố: “…Trong cuộc chiến đấu lâu dài này, không có ai là
kẻ thắng ai là kẻ bại. Toàn quân và toàn dân Việt Nam là người chiến thắng, chỉ
có đế quốc Mỹ xâm lược là kẻ chiến bại…”.
Đại tướng Dương Văn Minh:
“Ngày hôm nay, đại diện cho anh em có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự
thành công của Chính phủ Cách mạng Lâm thời trong công cuộc vãn hồi hòa bình
cho đất nước…”.
Đất nước thì đã sum vầy,
nhưng cha mẹ và cả gia đình bà đã rời Sài Gòn sang Mỹ từ những ngày cuối tháng
tư. Bà chỉ gặp lại mẹ mình ở Pháp năm 1989, khi đã sáu mươi tuổi, bởi không thể
xin visa vào Mỹ. Người mẹ từng lên tận căn cứ để cố khuyên can, lôi kéo con gái
về lại gia đình nhưng không thành, đã không kiềm được câu hỏi mà hẳn bà đã cất
giữ suốt cuộc phân ly dài mấy mươi năm: “Phượng ơi, con theo họ làm chi để cho
gia đình ly tán, phải rời quê cha đất tổ hả con?”.
Chính câu hỏi của mẹ đã
khiến bà nghĩ, Phải-viết-lại-cuộc-đời-mình…
--------------------------------------------
TRÒ CHUYỆN THÁNG 12/2020
*Xin bà cho biết, vì sao
bà từ bỏ cuộc sống trong gia đình một công chức cấp cao của Pháp để tham gia
kháng chiến?
-Một, là chuyện cô bạn
người Pháp đã nhảy lên đạp bóng lá cờ An Nam trong buổi chào cờ ở trường; và
hai, là chuyện anh công nhân người Thượng trong sở cà phê của cha tôi bị thương
vì cuốc trúng chân, nhiễm trùng mà không được chữa trị. Tôi không chấp nhận cả
hai chuyện đó.
*Khi cuộc sống vùng kháng
chiến trở nên quá khổ cực cho con cái, đã bao giờ bà có ý định quay về thành phố?
-Cũng có lúc ý nghĩ đó hiện
ra, nhưng tôi không cho phép mình làm điều đó. Vì một ngày kia, chiến tranh sẽ
qua, con tôi sẽ lớn lên, và nếu con tôi biết rằng mẹ mình là kẻ đã trốn chạy.
*Vì sao đã cống hiến cho
kháng chiến nhiều như vậy mà bà lại không phải đảng viên?
-Hai lần được gợi ý viết
đơn vào đảng, hai lần tôi nhớ lại gương mặt viên bác sĩ định cưỡng bức mình và
tôi thấy kinh tởm, tôi không muốn đứng chung với hắn.
*Bà hài lòng điều gì ở
mình?
-Đó là, tôi không phản bội
những gì mình đã được giáo dục, trong mọi hoàn cảnh.
*Và điều gì khiến bà phải
tiếc?
-Là chuyện tôi đã không
chia sẻ nhiều hơn với chồng mình, khi anh được gợi ý ra khỏi quân đội. Tôi hiểu
nỗi đau buồn, thất vọng của anh lớn đến mức nào. Cứ nhớ hình ảnh anh quấn chăn
nằm quay mặt vào tường suốt thời gian dài, không hề hé môi, quặn mình chịu đựng…
Vậy mà tôi chỉ lo chạy kiếm tiền nuôi con, không chia sẻ cùng anh…
*Người đàn bà trong sách
của bà phải đảm đương quá nhiều công việc. Thế hệ trẻ đọc sách bà, có thể nghĩ,
tại sao người đàn bà phải nặng gánh như vậy, đàn bà lẽ ra phải được nâng niu,
hưởng thụ nhiều hơn….
-Tôi luôn tôn trọng những
người trẻ, tôn trọng những suy nghĩ của họ. Nhưng những gì có trong sách là tôi
ghi lại cuộc đời mình, những việc làm, lựa chọn của mình, vào thời điểm đó. Tôi
đã rất trung thực, để người đọc có thể hình dung về những người kháng chiến thuộc
tầng lớp tiểu tư sản thành thị như tôi, vào giai đoạn lịch sử đó.
*Cái gì giúp bà, dù trải
qua cuộc đời nhiều biến động, vẫn giữ được sức khỏe để tiếp tục làm việc ở tuổi
chín mươi?
-Có lẽ, do tôi luôn suy
nghĩ lạc quan, tiếp thu tốt những triết lý Phật giáo ông bà ngọai tôi đã dạy.
Tôi không bao giờ cực đoan để tự đâm đầu vào tường, mà luôn giữ một khoảng cách
để khi cần vẫn có thể lùi lại.
No comments:
Post a Comment