Cùng
đọc lại về “tự do âm” và “tự do dương”
Y CHAN - LUẬT
KHOA
12/01/2021
https://www.luatkhoa.org/2021/01/cung-doc-lai-ve-tu-do-am-va-tu-do-duong/
Cách đây đúng sáu năm, nhà báo Đoan Trang đã có một bài viết trên
Luật Khoa với tựa đề “Tự do âm và tự
do dương”.
Bài viết diễn giải ngắn gọn
các khái niệm căn bản nhất về tự do mà các triết gia chính trị lớn trên thế giới
đã tranh luận suốt nhiều thế kỷ qua. Nó đồng thời cũng giới thiệu đến bạn đọc tại
Việt Nam quyển sách “Political Philosophy: A Complete Introduction” (Giới thiệu
đầy đủ về triết học chính trị) của hai tác giả Phil Parvin và Clare Chambers.
Đây là cuốn sách dành cho ai muốn tìm hiểu ngọn nguồn các khái niệm chính trị,
khởi đầu của những tư tưởng thiết kế nhà nước, và nền tảng của các phương thức
quản lý xã hội.
Sáu năm sau bài viết
trên, chúng ta lại đang có các cuộc thảo luận sôi nổi về một trong những dạng
thức cơ bản nhất của tự do: quyền tự do ngôn luận. Nó bắt nguồn từ các hòn đá
được ném xuống mặt hồ ở phía bên kia bán cầu, và gợn sóng thì lan đến tận phía
bên này quả đất.
Nhân các cuộc thảo luận
đó, chuyên mục “ĐỌC
SÁCH CÙNG ĐOAN TRANG” kỳ này sẽ cùng bạn đọc thăm lại các khái niệm cơ
bản nhất về tự do được đề cập trong quyển sách nói trên.
Những nội dung này, cùng
với các kiến thức chính trị phổ thông khác, cũng đã được tác giả Đoan Trang tổng
hợp lại trong quyển “Chính
trị bình dân”. Trong đó, Đoan Trang đặt lại tên của hai khái niệm này
là “tự do không” và “tự do có”.
Tự do âm và tự do
dương
Triết gia Isaiah Berlin
được xem là người có công phổ biến hai khái niệm này, qua bài giảng nổi tiếng của
ông có tên “Two concepts of liberty” (Hai khái niệm về tự do).
Tự do âm là dịch từ thuật
ngữ “negative freedom”, còn tự do dương là “positive freedom”.
“Âm” (negative) ở đây
không phải là xấu, mà nó là “không có” (absence) – tương tự như “xét nghiệm âm
tính” tức là “không có virus”. Tự do âm vì vậy là chỉ cách hiểu về tự do theo
nghĩa “không có sự cản trở”.
Tương tự, “dương”
(positive) ở đây không có nghĩa là tốt. Trong trường hợp này, nó được đặt đối lại
với “âm” để chỉ thứ tự do “có điều kiện”. Điều kiện được nói đến là khả năng
làm chủ và trách nhiệm đối với lựa chọn của mình.
Theo cách hiểu truyền thống,
những người ủng hộ tự do âm thường bảo vệ tự do cá nhân, chống lại sự can thiệp
của nhà nước, có khuynh hướng ủng hộ thị trường tự do tuyệt đối.
Trong khi đó, những người
theo trường phái tự do dương thường đặt tự do cá nhân bên trong một bức tranh lớn,
hoặc của cộng đồng, hoặc của một quốc gia. Tự do theo cách hiểu của họ không chỉ
dính dáng đến lựa chọn (choice) của cá nhân, mà còn ở bối cảnh (context) của lựa
chọn đó. Đặt trong bối cảnh của một cộng đồng hay một quốc gia, luôn luôn có những
giới hạn và điều kiện đặt ra để đạt được tự do.
Ba cách phân biệt
tự do âm và dương
Cách 1: Từ khía cạnh được cho phép và có
khả năng làm thứ gì đó
Theo cách này, tự do theo
kiểu âm là khi một người không gặp sự cưỡng ép nào (coercion). Cưỡng ép ở đây
là hành động can thiệp có chủ đích từ phía người khác. Tự do vì thế có nghĩa là
được phép làm theo lựa chọn của mình mà không bị người khác cố tình can thiệp.
Những người theo trường
phái tự do âm không quan tâm đến việc cá nhân có khả năng thực hiện một lựa chọn
hay không. Họ chỉ quan tâm đến việc cá nhân không bị người khác cản trở.
Lấy ví dụ một người khuyết
tật hai chân không thể đi bộ. Theo cách hiểu của tự do âm, người này hoàn toàn
được tự do đi lại. Chuyện anh ta có thể đi được hay không không ảnh hưởng gì tới
quyền tự do của cá nhân anh. Các chính sách nhà nước theo trường phái tự do âm
vì vậy không có nghĩa vụ gì phải giúp đỡ người khuyết tật này, chỉ cần đảm bảo
không ai cản trở anh ta là được.
Tư tưởng tự do dương, ngược
lại, sẽ yêu cầu nhà nước phải có các chính sách hỗ trợ (ví dụ như tài trợ xe
lăn, nạng chống…), đảm bảo người này có khả năng làm được chuyện mình muốn (đi
lại). Đó là vì theo những người tự do dương, cá nhân chỉ thực sự tự do khi họ có
khả năng làm được điều mình muốn.
Cách 2: Từ khía cạnh làm bất cứ gì tùy
thích và khả năng kiểm soát ham muốn bản thân
Tự do âm, theo cách hiểu
này, là việc một người tự do làm bất kỳ điều gì mình muốn vào bất kỳ thời điểm
nào, bất kể việc đó tốt hay xấu.
Những người theo trường
phái tự do dương không đồng ý với cách hiểu này. Họ cho rằng trong nhiều trường
hợp, một người có thể làm những việc bản thân họ không thể kiểm soát, như dưới
áp lực tâm lý, hoặc do ảnh hưởng của các cơn nghiện. Tự do vì vậy, theo những
người tự do dương, là khả năng làm chủ bản thân, kiểm soát những gì mình muốn.
Isaiah Berlin, một người
luôn ủng hộ tự do âm, cho rằng đây là cách hiểu nguy hiểm về tự do.
Nó cho phép người khác kết
luận rằng một người có thể chưa đủ khả năng làm chủ, chưa có khả năng kiểm
soát, và vì thế (người khác/ nhà nước) cần phải “giúp đỡ”, hay thậm chí là “buộc
anh ta phải tự do” (force to be free), như cách Jean-Jacques Rousseau đã từng
viết.
Những nhà tư tưởng khác,
như John Stuart Mill và John Rawls, bảo vệ kiểu tự do dương này khi cho rằng tự
do không chỉ là việc thỏa mãn những ham muốn mà một người đang có, nó còn là việc
thỏa mãn những ham muốn mà một người cần phải có (ought to
have). Theo đó, nên có một khung giá trị cho hành động, ví dụ như theo sự thật
thay vì theo những lời dối trá.
Cách 3: Từ góc độ không gian riêng tư được
bảo vệ và sự tự do tham gia xây dựng cộng đồng
Theo cách hiểu này, tự do
âm là việc mỗi người có một vùng riêng tư (private sphere) không bị nhà nước
hay bất kỳ ai can thiệp. Ở trong không gian cá nhân đó, mỗi người có thể tự do
làm bất kỳ điều gì mình muốn.
Khái niệm này quen thuộc
và tự nhiên với hầu hết mọi người, nhưng trên thực tế nó gần như không tồn tại.
Lý do là vì không ai được toàn quyền tự do làm mọi thứ trong vùng riêng tư của
mình mà không chịu sự can thiệp của bên ngoài. Nếu xem ngôi nhà là không gian
riêng tư (hiển nhiên), thì người chồng có toàn quyền bạo hành người vợ, cha mẹ
có quyền thoải mái đánh đập con cái. Pháp luật hiện tại ở hầu hết mọi nơi đều cấm
các hành động này. Hoặc như với niềm tin tôn giáo của mỗi người, thứ cũng hiển
nhiên được xem là vùng riêng tư, trên thực tế có những hành động phải bị can
thiệp như tục hiến tế (ngày xưa) hay cưỡng ép hôn nhân (vẫn còn tồn tại ngày
nay).
Trong khi đó, cách hiểu tự
do dương ở góc độ này là khả năng kiểm soát cuộc đời của một cá nhân, không chỉ
nằm ở việc có một không gian riêng tư được bảo vệ, mà còn là quyền tự do chủ động
tham gia kiến tạo cộng đồng xung quanh. Một người sẽ được tự do khi được tham
gia cùng những thành viên khác trong cộng đồng, xây dựng và định hướng tương
lai của nó.
Khái niệm tự do dương
trong trường hợp này không phân tách khu vực công với khu vực tư. Nó đặt tự do
trong bối cảnh chung của một cộng đồng, thay vì là những đeo đuổi của cá nhân.
Berlin cho rằng cách hiểu
này đặt tự do cá nhân dưới sự kiểm soát của tập thể, và nó là cách thức mà những
cá nhân độc tài cũng như các chế độ độc tài trong lịch sử dùng để đàn áp những
ý kiến bất đồng với mình.
Tự do không chỉ có
âm hay dương
Philip Pettit, một triết
gia người Ireland vào năm 1997 đã đề cập đến một “khái niệm thứ ba” về tự do, một
phiên bản mà ông cho là cải tiến của cả âm và dương.
Pettit lấy ví dụ một người
nô lệ. Chủ của anh này tốt bụng tử tế đến mức không bao giờ cưỡng ép anh làm bất
kỳ việc gì. Người nô lệ được tự do làm mọi thứ, gặp bất kỳ ai, ở bất kỳ đâu, đến
bất kỳ nơi nào.
Theo định nghĩa của tự do
âm, người này là hoàn toàn tự do. Anh ta không bị ai can thiệp vào việc mình
làm.
Nhưng trên thực tế, người
chủ nô vẫn luôn có khả năng kiểm soát mọi thứ về cuộc đời anh. Chỉ cần ông muốn,
bất kỳ lúc nào ông cũng có thể can thiệp và ngăn chặn những thứ người nô lệ
làm. Người nô lệ vì vậy không thể xem là được tự do.
Pettit đề xuất một khái
niệm tự do khác: thay vì chỉ là không bị can thiệp (lack of interference) như tự
do âm, thì tự do đúng nghĩa ở đây phải là không bị kiểm soát và không bị phụ
thuộc (lack of domination).
***
Ý kiến của Philip Pettit
chỉ là một trong vô số những tranh luận đưa thêm vào câu chuyện định nghĩa thế
nào là tự do. Và đó cũng chỉ là một trong rất nhiều những khái niệm trong chính
trị nói riêng và triết học nói chung mà nhân loại đã luôn phải vắt óc suy nghĩ.
Điều quan trọng nhất của
tất cả những cuộc tranh luận không phải là ở việc áp đặt được suy nghĩ của mình
lên người khác; một con chó cũng có thể làm được chuyện đó – tất cả những gì nó
cần làm là sủa đi sủa lại cho đến khi đối phương phải bỏ cuộc.
Con người, khác với loài
vật, học được vô số điều mới lạ về thế giới này qua các cuộc
tranh luận.
Các tác giả của
“Political Philosophy” đã chia sẻ về mục đích của quyển sách ở phần đầu, khi
mong muốn giúp người đọc hiểu rõ về những thứ cơ bản nhất đang diễn ra trong đời
sống chính trị xung quanh.
Triết học là một môn được
sinh ra để giúp con người tìm hiểu sự thật về thế giới. Triết học chính trị,
như tên của quyển sách, có mục đích giúp người ta biết được sự thật và bản chất
về cách chúng ta tổ chức cộng đồng, xã hội, thể chế mình đang sống.
Tất cả những thứ đã và
đang được tạo ra – các thể chế, luật pháp, kể cả những khái niệm – đều là những
“work in progress” (sản phẩm chưa hoàn thiện).
Chúng ta tìm hiểu và học
hỏi chúng không phải để ôm khư khư lấy một học thuyết nào đó. Chúng ta luôn cần
phải chất vấn tất cả những khái niệm, những điều luật, những tư tưởng, những định
chế…
Nhưng trên hết, chúng ta
luôn phải chất vấn mọi hiểu biết của bản thân mình.
Chỉ khi nào làm được điều
đó, mỗi người mới có thể tự giải thoát bản thân khỏi những chiếc lồng, và có được
tự do, cả âm lẫn dương, hay như cách gọi của Đoan Trang, vừa không vừa có.
Tự do không là tự do khỏi
những chiếc lồng chỉ chực chụp lên mình, còn tự do có là việc có thể cất cánh
bay.
No comments:
Post a Comment