Chính
trị vùng miền Việt Nam: Lời nguyền địa chính trị
18/01/2021
https://www.luatkhoa.org/2021/01/chinh-tri-vung-mien-viet-nam-loi-nguyen-dia-chinh-tri/
Chính trị vùng miền Việt Nam bắt rễ từ
rất xa trong lịch sử.
Chính trị vùng miền
Việt Nam không phải bây giờ mới có. Ảnh: AFP/Công an Nhân dân. Đồ họa: Luật
Khoa
Tranh chấp Nam – Bắc và
tư duy vùng miền tại Việt Nam không phải là câu chuyện mới đây. Nhiều nghiên cứu Việt Nam và quốc tế, không chỉ về lịch sử –
chính trị, mà thậm chí là còn về văn học, đã cho thấy sự khác biệt trong nền tảng
văn hóa, quá trình phát triển và tư duy chính trị giữa Nam – Bắc Việt Nam.
Kể từ cuối thế kỷ 17, hai
miền Nam – Bắc, bắt đầu với thứ gọi là Đàng Trong – Đàng Ngoài, không hề có
liên lạc gì khác với nhau ngoài chiến tranh và chết chóc. Điều này được giáo sư
Alexander Woodside thuộc trường Đại học British Columbia (Canada), một trong những
chuyên gia phương Tây hàng đầu về lịch sử Đông Á và Đông Nam Á, tổng kết lại rằng:
mỗi miền tiến hóa và phát triển bằng hệ quy chiếu riêng của nó với cấu trúc
kinh tế, chính trị và xã hội hoàn toàn đặc trưng.
Nền tảng văn hóa của hàng
trăm năm tách biệt dường như tạo nên một định hướng chung cho thế giới quan của
mỗi miền, điều đến nay dường như vẫn còn vang vọng.
Ở Đàng Ngoài, ổn định xã
hội được chú trọng, chủ yếu dựa vào sự phát triển của đạo lý, nguyên tắc Khổng
giáo. Họ có xu hướng thân Trung Quốc, và tập trung duy trì sự thuần nhất văn
hóa (cultural heterogeneity) rất cao. Mạch máu chính của nền chính trị Đàng
Ngoài là các viên chức dân sự (civil servant) được đào tạo bài bản, có quy củ
và có nền tảng thực hành mô hình quan liêu nhiều thế kỷ.
Hoàn toàn ngược lại, chúa
Nguyễn ở Đàng Trong duy trì sự ổn định xã hội chủ yếu bằng phát triển kinh tế
và giao thương đường biển với nhiều quốc gia khác nhau. Nguồn lực chính trị chủ
yếu là các quan chức quân sự phi Khổng giáo. Chính quyền và con người Đàng
Trong nhìn chung luôn được đánh giá là mang tính thỏa hiệp và thực dụng cao hơn
hẳn so với miền Bắc. Nền tảng sắc tộc cũng đa dạng hơn với sự xuất hiện đáng kể
của người Chăm, Khmer, Hoa và kể cả thương nhân phương Tây trong quan hệ xã hội,
giao thương thường ngày.
Cái lõi văn hóa này, hay
thậm chí người viết có thể tạm gọi là một lời nguyền địa chính trị, tiếp tục ám
ảnh chính trị Việt Nam.
Từ việc đại đa số các
nhóm trí thức Khổng giáo Kinh Bắc khước từ nhà Tây Sơn, cho đến phe Bắc phái
Nam bên trong nội bộ nhà Nguyễn, và đỉnh điểm là chiến tranh Việt Nam (1954 –
1975)… là những minh chứng cho sự dai dẳng của căn bệnh nan y “Nam – Bắc” trong
nền chính trị quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam, tập
đoàn chính trị thống trị chính thức của toàn cõi Việt Nam gần nửa thế kỷ trở lại
đây, có vẻ không thoát khỏi lời nguyền trên, theo ghi nhận của nhiều nghiên cứu
khoa học lịch sử.
Cũng cần lưu ý, bài viết
không tập trung vào nơi sinh hay nguyên quán của một cá nhân để xác định họ là
“cánh Nam” hay “cánh Bắc”. Điều quan trọng là họ được nuôi dưỡng, hoạt động, chịu
ảnh hưởng và xây dựng lực lượng trong môi trường chính trị nào.
Một trong những ví dụ điển
hình là trường hợp của Nguyễn Văn Linh. Ông sinh ra ở Hưng Yên, tức hoàn toàn ở
Bắc Bộ Việt Nam. Tuy nhiên, ông trưởng thành và hoạt động cách mạng trong suốt
15 năm giai đoạn chiến tranh Việt Nam chủ yếu với tư cách là phó bí thư và bí
thư Trung ương Cục miền Nam (chức danh đảng quan trọng nhất tại miền Nam Việt
Nam). Sau đó, ông tiếp tục được chỉ định làm Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Linh vì vậy là một trong những đại diện có tư tưởng cấp tiến ít ỏi của
“cánh Nam” trong Bộ Chính trị sau năm 1975.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2021/01/ho-chi-minh.jpg
Các lãnh đạo Đảng Cộng
sản Việt Nam ở chiến khu Việt Bắc thời kỳ trước 1954: Trường Chinh, Hồ Chí
Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyễn Giáp. Ảnh: Báo Nam Định.
Từ thập niên 1920
đến 1975: Thành bại vì… còn sống hay đã chết
Khác biệt vùng miền xuất
hiện gần như ngay lập tức khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành hình tại dải đất
hình chữ S.
Nhiều nghiên cứu tiếng Việt
cũng như nghiên cứu khả tín tiếng Anh như của William J. Duiker với “Communist Road to Power in Vietnam” hay Vũ Tường với “Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of
Ideology” ghi nhận rằng trong thập niên 1920, tinh hoa cộng sản miền Bắc gần
như thống nhất trong việc ưu tiên thực hiện cách mạng xã hội trước (“social
revolution first”), trong khi đó, cánh miền Nam thì ưu tiên cách mạng dân tộc
dân chủ trước (“national revolution first”).
Sự tan rã của Việt Nam
Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (Vietnam Revolutionary Youth League) vào năm
1929, từ đó hình thành nên hai chính đảng cộng sản gồm Đông Dương Cộng sản Đảng
(tên gọi cũng phản ánh việc không chấp nhận con đường cách mạng dân tộc tính)
và An Nam Cộng sản Đảng là bằng chứng được ghi nhận khá rõ ràng về sự phân hóa
vùng miền (và theo đó là tư tưởng chính trị) bên trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Vào năm 1930, Nguyễn Ái
Quốc làm trung gian cho việc sáp nhập cả ba tổ chức cộng sản để hình thành Đảng
Cộng sản Việt Nam (bao gồm một đảng độc lập khác là Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn – League of Indochinese Communist). Tuy nhiên, các tranh chấp về định hướng
đấu tranh giữa các phe phái bên trong Đảng Cộng sản Việt Nam không vì thế mà giảm
bớt.
Gần một thập niên sau, với
thất bại của Xô-viết Nghệ Tĩnh (Trung bộ Việt Nam, 1930 – 1931) và khởi nghĩa
Nam Kỳ (Nam bộ Việt Nam, 1940), hệ thống mạng lưới cán bộ và cơ sở đảng của miền
Trung và miền Nam gần như bị triệt tiêu hoàn toàn.
Cũng vì hai thất bại
nghiêm trọng này, bốn đời tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là Trần
Phú (quê Phú Yên), Lê Hồng Phong (quê Nghệ An), Hà Huy Tập (quê Hà Tĩnh) và
Nguyễn Văn Cừ (quê Bắc Ninh), cùng nhiều cán bộ cao cấp khác đều bị thực dân
Pháp xử tử. Đây cũng là những người có tham dự vào các tranh chấp vùng miền trước
đó.
Theo lý giải của tác giả
Duy Trinh, Đại học California, trong nghiên cứu “Explaining Factional Sorting in China and Vietnam”, điều
này khiến cho chỉ còn Hồ Chí Minh và mạng lưới cán bộ lãnh đạo Bắc Kỳ là còn sống
sót để trở thành lực lượng nòng cốt tham gia Cách mạng tháng Tám. Trên cơ sở
này, họ đồng nhất sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với sự lãnh đạo của giới
tinh hoa “Việt Bắc”.
Tuy nhiên, hệ quả phụ của
nó đối với chính nhóm lãnh đạo này là họ không còn nền tảng nào khác để tham
gia vào các hoạt động bảo trợ chính trị (political clientelism – hiểu đơn giản
là việc trao đổi, mua bán, trung gian quyền lực, nhân sự, lợi ích chính trị…)
ngoài nền tảng địa lý, quê quán hay vùng miền. Ví dụ như ở Trung Quốc, các phe
phái nội đảng đời đầu thường được phân chia giữa cán bộ được đào tạo ở Liên Xô
và cán bộ tự phát triển của địa phương.
Sự thống trị đương nhiên
của giới tinh hoa từ Việt Bắc chỉ chính thức bị đe dọa khi Lê Duẩn (quê Quảng
Trị) – một cán bộ từ miền Nam Trung Bộ – chen chân được vào Bộ Chính trị
(1951). Tuy nhiên, ông này cũng mất hết chín năm sau đó để có thể đạt được vị
trí tổng bí thư (1960 – thời điểm này gọi là bí thư thứ nhất) và lâu hơn thế nữa
để củng cố vị thế cùng phe cánh của mình.
Chính sử của nhà nước Việt
Nam ghi nhận rằng chính Hồ Chí Minh đã ủy nhiệm quyền lực lại cho ông Duẩn nhằm
đảm bảo sự thống nhất của đảng. Song không khó để các nhà nghiên cứu nhận ra sự
nổi lên của Lê Duẩn là kết quả của một cuộc cạnh tranh giữa phe cán bộ miền Bắc
mong muốn tập trung xây dựng lại miền Bắc và phe cán bộ miền Nam “diều hâu” chủ
trương lấy lại miền Nam bằng vũ lực.
“Vụ án xét lại chống Đảng”
xảy ra trong giai đoạn 1967 – 1968 được nhiều nhà quan sát cho là đỉnh điểm của tranh chấp phe phái Nam – Bắc, với
các nhân vật thuộc cấp hoặc đồng minh chính trị của Hồ Chí Minh lẫn Võ Nguyên
Giáp bị bắt giữ và xét xử. Một số cái tên trong đó còn quen thuộc và được
ghi nhận trong các nghiên cứu hiện đại ngày nay như Vũ Đình Huỳnh và Vũ
Thư Hiên, Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Đỗ Đức Kiên, Hoàng Thế Dũng, Văn Đoàn, Lê Trọng
Nghĩa…
Kể từ cuối thập
niên 1950, Lê Duẩn (phải) dần thay thế Hồ Chí Minh trở thành người lãnh đạo đảng.
Ảnh: Báo Hà Tĩnh.
Cùng trong hoàn cảnh đó,
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, một tổ chức trực thuộc của Đảng
Cộng sản Việt Nam (dù lúc đó cả hai phía đều phủ nhận), phát triển ở miền Nam với
quyền tự chủ cao trong các vấn đề từ nhân sự đến tài chính, từ đó trở thành một
thế lực đáng gờm nếu một ngày hai miền thống nhất. Có thể lý giải việc này là
do cách biệt địa lý với chính quyền Hà Nội, cùng với mô hình và hệ thống tổ chức
chính trị – quân sự thống nhất và mang tính tự trị, tự duy trì khá cao. Bản
thân nhóm này cũng là những nhóm thực chiến với quân lực Việt Nam Cộng hòa và
quân đội Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, tham vọng “giải
phóng” sớm của phe phái cán bộ từ miền Nam lại là con dao hai lưỡi làm hại
chính họ, mà cao trào là chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968.
Các tài liệu quốc tế thường
ghi nhận chiến dịch Mậu Thân là cú tát làm công chúng Hoa Kỳ thức tỉnh (một
cách thiếu kiên nhẫn). Thứ mà họ không nhận ra là cơn ác mộng hậu Xô-viết Nghệ
Tĩnh đã lặp lại với Mặt trận: cơ sở đảng của họ ở miền Nam bị trốc rễ.
Theo ước tính, có khả năng lên đến 180.000 quân cách mạng thiệt
mạng trong Tết Mậu Thân. Thêm vào đó, 40% cán bộ chủ chốt của Mặt trận bị giết
hoặc mất kết nối với cơ sở. Nhóm này sau đó bị cán bộ miền Bắc thay thế. Hệ thống
tình báo, cảm tình viên… đều bật gốc khỏi các đô thị miền Nam Việt Nam.
Vì những lý do trên, Mặt
trận không còn khả năng tự vận hành và đánh chiến dịch một cách độc lập mà phải
dựa vào sự điều động, kế hoạch và nhân lực của miền Bắc.
Quan trọng nhất, danh tiếng
cũng như tầm ảnh hưởng tại Hà Nội của cánh miền Nam, do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ dẫn
đầu, bị thách thức. Dù Lê Duẩn tiếp tục tại vị bên trong Bộ Chính trị đến tận
năm 1986, tổ chức đảng thuộc cánh miền Nam không còn đủ tiếng nói để tiến cử
các cá nhân có ảnh hưởng nào khác nhằm kế thừa vai trò và vị trí trong đảng
mình. Danh tính của “cán bộ đảng miền Nam” từ đó không còn quan trọng nữa.
Ông Võ Chí Công, Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước trao tặng Huân chương Sao vàng cho ông Nguyễn Văn Linh
(ngày 25-6-1992). Phía sau là các ông Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng. Ảnh:
TTXVN.
Sau 1975: Bằng mặt,
không bằng lòng?
Kể từ sau 1975, sự thắng
thế của nhóm miền Bắc được khẳng định khá rõ. Song không vì vậy mà nhóm này
không cẩn trọng trong việc duy trì một hình ảnh công bằng và phổ quát bên trong
Bộ Chính trị. Theo ghi nhận của tác giả David Koh (bất ngờ là hiện đang
làm việc cho VinUni của Vingroup), số lượng ghế ủy viên Bộ Chính trị đã phải
tăng từ 11 ghế lên 14 ghế, cho phép các đại diện từ miền Nam nắm giữ.
Điều này, tuy nhiên, vẫn
còn gây nhiều tranh cãi. Như đã nói, Nguyễn Văn Linh là nhân vật duy nhất từ miền
Nam có thể lọt vào Bộ Chính trị (mà thật ra thì ông cũng là người gốc Bắc) sau
năm 1975.
Một số nhà nghiên cứu
thì lại cho rằng các nhóm bỏ phiếu “hội đồng”, các liên minh chính trị có tính
phe phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay không còn màu sắc vùng miền rõ
ràng, mà chủ yếu dựa trên lý tưởng, chính sách hoặc lợi ích.
Các tác giả như Barbara Crossette hay Nguyen Cong Luan là đại diện chủ yếu của luận điểm
trên. Họ cho thấy chi phái miền Nam có mặt cả ở nhóm cấp tiến ủng hộ cải tổ
kinh tế như Nguyễn Văn Linh hay Võ Văn Kiệt. Song những người đến từ chi phái
này như Lê Duẩn và Mai Chí Thọ (sinh tại Nam Định, nhưng từ năm 1948 đã là bí
thư Tỉnh ủy Mỹ Tho và hoạt động hoàn toàn tại miền Tây Nam Bộ cho đến 1975) lại
là những nhân vật cộm cán nhất trong phe thủ cựu.
Trường Chinh, một nhà lý
luận chính gốc người Bắc, thì từng hợp lực với Lê Duẩn để đẩy Nguyễn Văn Linh
ra khỏi Bộ Chính trị vào năm 1982. Nhưng cũng chính ông này mở đường lý luận và
kêu gọi chi phái miền Bắc ủng hộ tạo đà cải cách kinh tế, giúp đỡ Nguyễn Văn
Linh trở lại con đường quyền lực và nắm giữ vai trò tổng bí thư.
Nguyễn Văn Linh, mặt
khác, dù được tụng xưng là cha đẻ của phong trào Đổi mới tại Việt Nam, dần trở
nên bảo thủ hơn và thường xuyên xung đột với Võ Văn Kiệt trong các vấn đề liên
quan đến chi tiết và định hướng của quá trình Đổi mới cho đến khi ông hết nhiệm
kỳ vào năm 1991.
Tuy nhiên, phải thừa nhận
rằng chỉ sau Đổi mới, chi phái miền Nam của Đảng Cộng sản mới có mặt một cách
thường xuyên và đông đảo hơn trong Bộ Chính trị.
Thành công vang dội của Đổi
mới và quá trình mở cửa do chi phái miền Nam đóng vai trò chủ đạo (mà đặc biệt
là cánh miền Tây Nam Bộ) nhanh chóng tạo điều kiện mở rộng ảnh hưởng của nhóm.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2021/01/d1_idvp.jpg
Dàn lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam hai thập niên đầu thế kỷ XX. Ảnh: TTXVN.
Ở một góc độ nào đó, người
ta bình luận rằng khả năng mở rộng tầm nhìn chính trị Việt Nam ra khỏi quota vùng
miền là khả thi.
Sau Đại hội X – 2006, có
thể nhận thấy các lãnh đạo chính trị cao cấp như Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn
Sang, Nguyễn Minh Triết có lực lượng áp đảo hai vị đến từ miền Bắc là Nông Đức
Mạnh và Nguyễn Phú Trọng. Nhìn rộng hơn, có đến 6 thành viên đến từ Tây Nam Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long trong Bộ Chính trị vào khi đó. Nếu so với con số 14 ủy
viên tổng cộng thì không hẳn là nhiều, nhưng nó cho thấy tầm ảnh hưởng dần lớn
mạnh của một bộ phận chính trị “bản lề” trong suốt gần 100 năm lịch sử của Đảng
Cộng sản Việt Nam: bị lãnh đạo chứ chưa bao giờ thành lãnh đạo.
***
Đại hội XII và Đại hội
XIII chắc chắn đã có những thay đổi rất dễ thấy. Sau chỉ tròm trèm một thập kỷ
trỗi dậy, cánh miền Nam tiếp tục rơi vào thế yếu, với một lý do cực kỳ hợp lý –
quản lý kinh tế kém và tham nhũng.
Tuy nhiên, sẽ thật ngờ
nghệch nếu cho rằng bản chất tham nhũng trong bộ máy nhà nước Việt Nam chỉ tồn
tại hay phát huy ở bối cảnh do chi phái miền Nam nắm quyền.
Nên nhớ, đến cuối cùng, gần
như toàn bộ bộ máy quản lý ở trung ương đều do các “sĩ phu Bắc Hà” nắm cả, dù
cho đến nay không có một nghiên cứu chính thức nào dám đào sâu vào nghiên cứu
tính đại diện vùng miền trong nhân lực quản lý cấp cao của nhà nước Việt
Nam.
Cuộc chiến chống tham
nhũng đã diễn ra và sẽ kéo dài trong tương lai, không biết bao nhiêu phần trăm
nằm trong nỗi ám ảnh vùng miền. Khối ung thư trong tư tưởng quản lý nhà nước
“Đàng Trong – Đàng Ngoài” liệu có thể giải quyết bằng cách nào, kể cả khi Đảng
Cộng sản rơi khỏi quỹ đạo lịch sử, vẫn là một câu hỏi quá khó.
No comments:
Post a Comment