7/12/2020
https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/19818-tu-ng-nh-hoang-h-i-th-y
Nhà văn Hoàng Hải Thủy đã ra đi
Phạm Trần
07/12/2020
Nhà văn nổi tiếng Hoàng Hải
Thủy đã ra đi vào lúc 23g20 ngày 06/12/2010 tại bệnh viện Inova Fairfax
Hospital (bệnh viện Fairfax) sau một cơn bạo bệnh, hưởng thọ 88 tuổi.
Trước đó, phu nhân của
ông, bà Elise Đỗ Thị Thủy cũng đã mệnh chung ngày 28/12/2018, hưởng thọ 88 tuổi.
https://live.staticflickr.com/65535/50691882628_3a5d81197b.jpg
Nhà văn Hoàng Hải Thủy và phu nhân, bà Elise Đỗ Thị
Thủy
Nhà văn Hoàng Hải Thủy,
tên thật là Dương Trọng Hải, sinh năm 1933 tại Hà Đông
Ông còn mang các bút hiệu
khác như : Công Tử Hà Đông, Ngụy Công Tử, Con Trai Bà Cả Đọi, Hạ Thu, Hồ Thành
Nhân, Văn Kỳ Thanh, Dương Hồng Ngọc, Triều Đông, Người Sài Gòn, v.v…
Nhà văn bỏ Hà Nội vào miền
Nam năm 1951 và đã trải nghiệm cuộc đời qua nghề làm báo : phóng viên nhật báo
Ánh Sáng Sài Gòn, Phòng 5 Bộ Tổng tham mưu quân đội Việt Nam Cộng Hòa, phóng
viên nhật báo Sài Gòn Mới, thư ký sở viện trợ Mỹ. Bên cạnh nghề phóng viên và
viết báo, Hoàng Hải Thủy còn viết tiểu thuyết từ năm 25 tuổi xuất bản và đăng
báo. Trước ngày miền Nam bị quân cộng sản miền Bắc chiếm 30/04/1975, Hoàng Hải
Thủy còn là một trong số biên tập viên, chuyên về dịch thuật cho Cơ quan USIS
(Sở Thông tin Hoa Kỳ) ở Sài Gòn.
https://live.staticflickr.com/65535/50692684052_0299e48295_m.jpg
Hoàng Hải Thủy, năm
25 tuổi, trong căn nhà 78/5 đường Mayer, mới đổi tên là đường Hiền Vương, Tân Định,
Sài Gòn, Năm 1957.
Theo báo mạng
Chutluulai.net, Nhà văn Hoàng Hải Thủy ở lại Việt Nam sau 1975 và bị bắt giam 2
năm (1977-1979) vì tội gửi một số bài thơ và bài viết sầu buồn ra nước ngoài.
Tháng 5/1984, ông bị bắt lần thứ hai cũng vì tội gửi tác phẩm ra nước ngoài.
Trong lần bị bắt thứ hai này, ông bị đưa ra tòa và bị kết án 6 năm tù giam. Mãn
hạn tù, năm 1990 trở về Sài Gòn. Năm 1994 ông được Tòa lãnh sự Hoa Kỳ bảo lãnh
sang Mỹ tị nạn theo diện HO, và định cư tại thành phố Falls Church, bang
Virginia cho đến nay.
Các tác phẩm đã xuất bản trước
1975 :
Vũ nữ Sài Gòn, Tây đực
Tây cái, Nụ hôn tử biệt (tái bản với tên Đêm vĩnh biệt), Nổ như tạc đạn, Yêu lắm
cắn đau, Bạn và Vợ, Môi thắm nửa đời, Người vợ mất trí, Định mệnh đã an bài, Kiều
Giang (phóng tác từ tác phẩm Jane Eyre của Charlotte Bronte), Gái trọ, Đỉnh gió
hú (phóng tác từ Wuthering Heights), Như chuyện thần tiên (Scoprion Reef), Điệp
viên 007 (phóng tác), Thầy Nô (phóng tác từ Dr. No), Máu đen Vàng đỏ (phóng
tác)…
Các tác phẩm đã xuất bản sau
1975 :
Công ty rửa tiền (The Firm), Mang xuống Tuyền đài (The Chamber), Báo cáo Bồ
nông (The Pelican Brief), Tiếng kêu của máu (The Red Dragon), Mùa hạ hai mươi,
Những tên biệt kích cầm bút, Dữ hơn rắn độc …
Các bài bình luận, phiếm luận
:
Mai sau…, Nếu có bao giờ,
Nhắc chi ngày xưa đó…, Chìm trong lãng quên, Sài Gòn và phụ nữ Việt trong phim
Người Mỹ Thầm Lặng, Đọc Chùa Đàn Xem Mê Thảo, Còn gốc mất gốc, Mưa cầm, gió bắt,
thép đợi, gang chờ…
Nhà văn và nhà báo Hoàng
Hải Thủy là một người điềm đạm nhưng có sức sáng tác nhanh và dồi dào. Ông đặc
biệt nổi tiếng với các tác phẩm phóng tác từ các tiểu thuyết nước ngoài thuộc
loại băng đảng xã hội đen.
Phạm Trần (tóm lược)
là một trong số bạn làm báo với Hoàng Hải Thủy
07/12/2020
*************
Hoàng Hải Thủy
Nguyễn Đình Toàn, VietTide,
số 389, 31/12/2008
Hoàng Hải Thủy là một
trong những nhà văn đã nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975. Ông nổi tiếng trước
nhất như một người viết phóng sự, sau đó, như một dịch giả và một người viết tạp
văn.
https://live.staticflickr.com/65535/50692604731_47b73926d0_o.jpg
Hoàng Hải Thủy
Từ tạp văn ở đây hiểu
theo nghĩa, gặp gì viết nấy, trộn lộn cả phóng sự, văn chương, trích dẫn thi
ca, âm nhạc, những ngôn ngữ do ông sáng tạo, bịa đặt ra.
Cái cách viết của ông có thể
có nhiều người không thích. Nhưng khi người ta nói không thích cách đùa cợt trớt
nhả của ông, có nghĩa là người ta đã đọc ông rồi.
Có phải như vậy chăng ?
Phải công nhận rằng, tất
cả những gì Hoàng Hải Thủy viết, đều có một sức hấp dẫn, dù nó được ký tên
Hoàng Hải Thủy hay Công Tử Hà Đông. Đang viết bình thường, ông thêm vào một chữ "vưỡn",
"em vưỡn yêu anh, mí nị em thơm như múi mít". Trong ngôn ngữ
miền Bắc của chúng ta, hai từ "mí nị", cũng có người
nói là "mí lỵ" là hai tiếng "mới lại" được
phát âm trẹo đi. Hoặc, những tiếng "ê, a" không có nghĩa gì, nhấn mạnh
vào những chữ ấy chỉ để chê bai, chọc quê. Nghe một người con gái nói : "Em
vưỡn yêu anh" thì có lẽ không anh nào dám tin đó là sự thật. Cái
phần sự thật có thể có đó, so với cái phần sự thật có thể không trong câu nói
nghiêm chỉnh hơn "Em vẫn yêu anh" có gì khác.
Các bông đùa của Hoàng Hải
Thủy luôn ở trên lằn ranh vui buồn, thật giả đó.
Đọc "Sống và
Chết ở Sài Gòn" người ta được biết những chuyện liên quan tới một
số văn nghệ sĩ, trí thức, như Vũ Hoàng Chương, Thượng tọa Trí Siêu (Lê Mạnh
Thát), Thanh Nam, Vũ Bằng, Duyên Anh, Thái Thủy, Mai Thảo, Trịnh Viết Thành,
Hoàng Anh Tuấn, Uyên Thao... về Trại giam Phan Đăng Lưu, nơi Hoàng Hải Thủy đã
trải nhiều năm tù.
Chương Hoàng Hải Thủy kể
lại những năm tù ở Trại Phan Đăng Lưu với nhiều tù nhân khẳng khái được Nhà văn
Đặng Trần Huân coi là một chương tuyệt tác.
Người ta nhớ lại những
năm sau 1975, hầu hết các văn nghệ sĩ ở Sài Gòn cũ, đều bị bắt giam.
Hoàng Anh Tuấn sau khi được
thả, đã được thân nhân bảo lãnh ra khỏi nước. Hoàng Hải Thủy có mấy câu thơ gửi
Hoàng Anh Tuấn được các bằng hữu của ông thỉnh thoảng nhắc lại :
Hai chuyến xe hoa về đất mẹ,
Bây giờ xa-lộ sáng đèn chưa ?
Ở đây thì chán, đi thì nhớ,
Sài Gòn mưa mà Mỹ cũng mưa.
Hẳn nhiều người đều biết
Hoàng Anh Tuấn ngoài việc làm thơ còn là một đạo diễn điện ảnh. "Hai
chuyến xe hoa" "Đất mẹ" và "Xa lộ không đèn". Hoàng
Hải Thủy nhắc trong bài thơ tên những cuốn phim Hoàng Anh Tuấn đã thực hiện.
Sống và Chết ở Sài Gòn được viết theo kiểu tùy hứng, nhớ đến
đâu viết đến đấy.
Chương ông viết về việc
ông bỏ lỡ chuyến di tản năm 1975 là một chuyện cười ra nước mắt.
Khi đó, Hoàng Hải Thủy
đang làm việc cho USIS tức Sở Thông tin Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Trước ngày 30/4 ông
Giám đốc USIS cho biết sẽ cho nhân viên đi nhưng con trai các nhân viên phải dưới
17 tuổi mới được đi theo bố mẹ. Nhân viên phàn nàn, ông nói ông phải làm theo lệnh
của chính phủ Việt Nam, không thể làm trái luật pháp, cũng không thể nhận diện
em nào trên hay dưới 17 tuổi. Ngay lúc đó Hoàng Hải Thủy thật thà không hiểu
câu nói của ông Giám đốc Alan Carter, ý ông muốn bảo "các anh cứ
khai các con anh 16 tuổi chứ tôi có cần các anh chứng minh đâu". Y
hệt như câu thơ của T.T.K.H, "đến khi tôi hiểu thì tôi đã" muộn mất mấy
chục năm rồi.
Trong cuốn sách Hoàng Hải
Thủy có nhắc đến cái chết của các nhà văn Vũ Bằng, Nguyễn Mạnh Côn, nhà báo
Minh Vồ, nhiều chi tiết về những năm đen tối, khốn khổ sau 1975 mà người dân miền
Nam đã phải trải qua.
Được biết cuối năm 2002
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội đã cho xuất bản cuốn "Hai mươi
nhăm năm một vùng tiểu tuyết" ý muốn nói tiểu thuyết ở miền Nam,
nội dung đề cập tới tiểu thuyết miền Nam từ 1887 tới Hồ Biểu Chánh rồi nhẩy vọt
qua tiểu thuyết từ 1975 đến 2000 đề cao những tác giả cộng sản, nhất là các tác
giả từ miền Bắc vào. Tất cả văn học miền Nam (từ 1954-1975) không có một dòng.
Nhà văn Đặng Trần Huân viết
: "Với chủ trương rõ ràng của nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam hiện nay
như thế, thử hỏi nếu không có những bộ sách như Văn Học Miền Nam của
Võ Phiến hay những tạp bút như Sống và Chết ở Sài Gòn thì sau
này lấy đâu ra tài liệu về văn học và đời sống của văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng
Hòa ? Ta phải cám ơn Võ Phiến, cám ơn Hoàng Hải Thủy đã giúp ta tài liệu để còn
nhớ không quên những văn nghệ sĩ một thời sáng chói, dù nhớ cách nào đi chăng nữa".
Các văn nghệ sĩ của chúng
ta sống ở miền Nam trước 1975, cho đến nay, đã mất đi nhiều lắm. Người chết
trong tù, chết trong nước, người chết già, chết bệnh, người chết nơi xứ lạ, quê
người, số còn lại e rằng ít hơn số đã mất.
Và, trong số những người
còn lại, Hoàng Hải Thủy là người duy nhất cho đến nay vẫn viết và viết được một
cách đều đặn. Cách viết của ông gần như không có gì thay đổi, pha trộn văn
chương với phóng sự, nửa đùa, nửa thật. Nhưng với cái nhìn sâu sắc của người đã
ở ngoài cái tuổi "cổ lai hy", đọc ông, người ta có cảm tưởng mọi sự
trên đời đều hình như lúc nào cũng có hai mặt, một mặt bi thương và một hài hước.
Nói đến mọi sự trên đời,
bởi vì, Hoàng Hải Thủy đề cập tới rất nhiều chuyện trong các bài viết của ông,
bằng hữu, nghề nghiệp, kỷ niệm, tình yêu, chính trị, thời sự, tù đầy, cảm khái
trước cái đẹp của thiên nhiên, thời tiết, kiếp sống tha hương.
Loạt bài mới nhất của ông
cho đăng trên các báo chí gần đây, những phê phán chua chát của ông đối với chế
độ cộng sản, sách báo của các tác giả ở trong nước và những người ông cho là đến
bây giờ vẫn còn bị cộng sản mà mắt, được rất nhiều người đọc. Dù có cùng quan niệm
với ông hay không, người ta vẫn thấy ở ông một tấm lòng thiết tha với đất nước,
yêu cái đẹp, yêu sự thật.
Tập Đất Hồ Ngàn
Năm của Hoàng Hải Thủy cho xuất bản mới đây gồm tám đoản văn : Huyền
thoại Vương Chiêu Quân, Giang Tả cầu hôn, Rồng nằm, ngựa chạy, Sự tất như thử,
Trăm năm binh lửa, Thơ và sự khốn cùng, Mơ ngày về vẽ lông mày, Thiên Long tình
sử.
Hoàng Hải Thủy cho biết
ông bắt chước ông Lê Quý Đôn ghi lại những chuyện hay hay đọc được cùng với những
suy luận, những nhận xét của mình.
Qua cuốn sách người ta được
biết thêm một Hoàng Hải Thủy rất yêu thơ, đọc rất nhiều thơ Đường, dịch nhiều
thơ Đường và còn có thể làm thơ bằng chữ Hán nữa.
Đoản văn về "Thơ
và sự cùng khổ" của Hoàng Hải Thủy gây nhiều xúc động trong lòng
độc giả. Hoàng Hải Thủy viết đoản văn này sau khi đọc một bài thơ của Nguyễn Du
trong "Bắc Hành thi tập", chắc Nguyễn Du đã sáng tác
trong chuyến đi sứ sang Bắc Kinh và qua nơi có ngôi mộ Đỗ Phủ.
Thi hào Đỗ Phủ trong một
chuyến đi xa đã nhuốm bệnh và chết trên một con thuyền trên sông Tương. Vì nhà
nghèo, vợ con không đưa được ngay di hài ông về quê nhà, phải tạm chôn ở Nhạc
Châu. Bốn mươi năm sau, người cháu của Đỗ Phủ là Đỗ Tư Nghiệp mới dời được hài
cốt Đỗ Phủ về Yểm Sư, mai táng trên núi Thú Dương, thuộc Hà Nam.
Tuy vậy ở Lỗi Dương vẫn
có ngôi mộ giả của Đỗ Phủ do viên huyên lệnh Lỗi Dương họ Nhất xây để tưởng niệm
nhà thơ lớn.
Người Hoa ngày xưa thường
xây những ngôi mộ giả các nhân vật họ kính trọng.
Đỗ Phủ thơ hay tuyệt thế
nhưng suốt đời nghèo khổ, nghèo đến độ không nuôi nổi vợ con và thân mình, để đến
nỗi một người con nhỏ của ông phải chết vì thiếu ăn.
Nguyễn Du đặt câu hỏi,
ông (Đỗ Phủ) cùng khổ đến thế phải chăng vì thơ ? Phải chăng ta có thể quy tội
làm ông khổ là thơ ?
Chính Đỗ Phủ khi nhớ tới
Lý Bạch, nhớ tới Khuất Nguyên tự trầm mình ở sông Mịch La đã than thở :
"Làm thơ hay như Khuất Nguyên, như Lý Bạch mà cuộc đời khổ sở đó là vì văn
chương ghen ghét những người mệnh đạt. Văn chương không cho những người làm thơ
được thành công trong đời".
Bàn về thơ và sự cùng khổ
Âu Dương Tu, một danh sĩ khác của Trung Quốc viết : "Không phải thơ làm
người ta cùng khổ. Chính vì người làm thơ có cùng khổ thơ của người đó mới
hay".
Đỗ Phủ nói : "Văn
chương ghét mệnh".
Nguyễn Du cho rằng:
"Làm gì có chuyện văn hương ghét mệnh. Làm gì có chuyện trời ghen với người".
Nhưng trong truyện Kiều
Nguyễn Du lại viết :
Lạ gì bỉ sắc, tư phong.
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Hoàng Hải Thủy viết :
"Đây không phải một điều mâu thuẫn trong quan niệm về nhân sinh của thi
sĩ. Không phải Nguyễn Du bất nhất trong quan niệm của ông về đời người. Ý thức
của chúng ta rất phức tạp, đa dạng. Nguyễn Du tất nhiên là phức tạp hơn người
thường".
Hoàng Hải Thủy lấy trường
hợp của ông để nói thêm về câu hỏi được nêu ra : Thơ có làm cho người làm thơ
phải khổ sở không ?
"Viết tiểu thuyết từ
năm 25 tuổi, có thể nói tôi suốt một đời yêu thương, gắn bó, sống chết với việc
viết truyên. Với tôi, viết là hạnh phúc. Tôi đã sống để viết, viết để sống và
trước năm 1975, tôi đã sống được với việc viết truyện của tôi. Trước 1975, ở
Sài Gòn, Thủ đô quốc gia Việt Nam Cộng Hòa của tôi, trong hai mươi năm, tôi đã
sống để viết và đã viết để sống. Sau 1975, tuy biết viết là tù tội, tôi vẫn viết.
Dù vậy tôi vẫn không thể trả lời thỏa đáng câu hỏi : "Thơ có làm cho người
làm thơ cùng khổ hay không ?".
Tôi thấy Nguyễn Du đúng
khi thi sĩ nói : "Chữ tài liền với chữ tai một vần", "ngu si hưởng
thái bình".
Người có tài thường gặp
tai họa. Chuyện đó tôi thấy thường xẩy ra trong đời và trong thời loạn.
Tôi chịu câu nói của Âu
Dương Tu : "Thơ không làm cho người làm thơ cùng khổ. Chính vì có cùng khổ
thơ mới hay".
Nguyễn Đình Toàn
Nguồn : VietTide số 389, 31/12/2008
No comments:
Post a Comment