Nhà
tù số 4 Phan Đăng Lưu, Giáng Sinh đầu tiên trong tù
Thiện
Ý
31/12/2020
https://www.voatiengviet.com/a/phan-dang-luu-giang-sinh-chap-phap/5720001.html
Sau khi dàn dựng màn mở đầu
“Phá án”, công an đưa chúng tôi trở lại nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu tiếp tục “làm
việc” tức bị công an chấp pháp thẩm vấn, điều tra xét hỏi.
Tôi được đưa thẳng trở lại
buồng giam tập thế số 8, Khu C.2. vào buổi sáng một ngày cuối tháng 11-1978.
Anh em bạn tù lo lắng hỏi tôi bị đưa đi đâu mà cả đêm hôm qua không trở về buồng
giam. Nhưng tôi chỉ nói là công an đưa đi làm việc nơi khác. Vì người bạn tù lớn
tuổi nằm cạnh tôi đã nói riêng với tôi phải cẩn thận lời ăn tiếng nói để tránh
tai mắt của công an trong phòng giam mà anh em gọi là ăng-ten (theo tiếng
pháp). Đó là những kẻ có nhiệm vụ báo cáo cho quản giáo những gì nghe, thấy
được liên quan đến các tù nhân trong cùng buồng giam. Qua một ngày đêm bị bỏ
đói khát và mất ngủ, tôi lăn ra ngủ cho đến khi nghe tiếng anh em gọi nhau lấy
phần ăn trưa. Vẫn bobo với chút nước muối pha loãng. Tôi được người bạn tù kế
bên chia cho chút muối mè mặn; nên tôi đã ăn và cảm thấy ngon miệng, dù bobo là
thực phẩm dùng cho ngựa ăn ở Liên Xô, rất khó ăn.
Tôi ở buồng giam tập thể
số 8 trước sau khoảng hai tuần. Vào một ngày đầu tháng 12-1978, công an coi tù
mở cửa buồng giam kêu tôi đem hết đồ đạc cá nhân ra ngoài. Sau đó chuyển tôi
vào biệt giam số 6 nằm cùng dãy với buồng giam tập thể số 8 ở phía bên ngoài.
Tôi vừa bước vào buồng biệt
giam, cửa sắt đóng lại, bóng tối tràn ngập. Tôi có cảm giác hụt hẫng tối xầm mắt,
như vừa bị ném từ vùng sáng vào một vùng đen tối sâu thẳm. Sau ít phút định thần,
tôi thấy buồng giam tối đen mỗi lúc một sáng mờ dần nhờ ánh sáng chiếu qua khe
một cửa sổ nhỏ trên cửa sắt biệt giam đóng kín. Ánh sáng này giúp tôi dần dần
nhận ra được không gian của biệt giam. Buồng rộng khoảng 1 mét 50, dài 2 mét
50. Chỗ ngủ cho tù nhân là một bệ xi măng dài khoảng 2 mét, rộng 1 mét. Chiều
dài bệ xi măng ngăn cách với một không gian khoảng dưới một mét vuông làm cầu tiêu,
có vòi nước gắn vào tường mặt tiền biệt giam. Chiều rộng bệ xi măng giáp với một
rãnh làm lối đi thấp hơn khoảng 0.5 mét, rộng khoảng 0.5 mét. Rãnh này (tù
nhân gọi là phi đạo) chạy dài ra đến cửa biệt giam, là một cửa sắt. Cửa này
có một cửa sổ nhỏ cao ngang tầm đứng của tù nhân có chiều cao trung bình, dài rộng
vừa đủ cho một khuôn mặt trung bình áp vào để lấy ánh sáng hay hít thở khí trời.
Sau này được biết tù nhân gọi là ‘cửa gió’, được đóng mở theo thời gian quy định
trong ngày; hay đóng cửa dài hạn nhiều ngày, được sử dụng như biện pháp trừng
phạt tù nhân vi phạm nội quy hay ngoan cố không khai theo ý muốn của chấp pháp.
Ba ngày đầu ở biệt giam cửa
gió bị đóng và chỉ được mở hai lần một ngày vào giờ đưa đồ ăn sáng và chiều do
những người tù được tin tưởng cho ra khỏi buồng tù trong thời gian làm lao động.
Ngày thứ tư tôi được công an kêu ra khỏi biệt giam đi “làm việc.” Vừa bước vào
phòng làm việc, tôi đã thấy một người mặc thường phục mang kính đen ngồi ở bàn.
Tôi cúi đầu chào và một cách tự nhiên bê chiếc ghế nhỏ không có tựa lưng ở gần
sát tường đặt gần sát bàn làm việc. Tôi đã quên là mình đang là tù nhân, không
được phép làm như vậy; là vi phạm khoảng cách an toàn giữa tù nhân và chấp
pháp. Nhưng tôi không thấy viên chấp pháp này nói gì mà mở đầu bằng câu vấn an
sức khỏe, rồi tự giới thiệu là người thay thế công an tên H. Đội trưởng đội chấp
pháp làm vụ án MTNQVN. H. là người tôi đã gặp hai lần trước đó mà tôi đã nói ở
phần trước. Một lần đầu sơ ngộ và lần thứ hai còng tay bịt mắt tôi dung xe đưa
đến biệt giam công an Quận 8 Saigon chuẩn bị phá án. Khác đội trưởng H. là người
Nghệ Tĩnh, đội trưởng thay thế đang ngồi trước mặt tôi là người nói tiếng Bắc.
Ông này trạc trên dưới 50 tuổi, khuôn mặt gầy, khắc khổ, trầm tĩnh; khác với H.
trạc ngang tuổi, khuôn mặt béo tốt, dáng mập mạp, lanh lợi, giọng Nghệ Tĩnh sôi
nổi. H. tự giới thiêu tên T.A.N. Trong lần làm việc đầu tiên này, tôi cảm thấy
mình an tâm và bình tĩnh hơn lần đầu làm việc với H. Ngồi đối diện, mắt nhìn thẳng
vào mặt đội trưởng chấp pháp, tôi trả lời một câu hỏi duy nhất anh ta đặt ra
cho tôi là - Vì sao anh chống chế độ khi đảng đã cho anh những điều kiện và cơ
hội thuận lợi để phục vụ nhân dân và đất nước?
Nghe câu hỏi này, tôi
đoán ngay là công an đã nắm rõ lý lịch của tôi. Tôi nghĩ ngay đến sự kiện trước
đó, chưa đầy một năm trước khi bị bắt. Đó là sự kiên tháng 1 năm 1978, tôi được
một công an khu vực trường học tôi đang giảng dạy, tên S. khi làm công tác tư
tưởng khuyến dụ tôi vào đảng CSVN; đã đánh giá tôi “Đồng chí là người
có lý lich tốt, có năng lực nhiệt tình trong công tác giảng dạy và sinh hoạt học
đường và ảnh hưởng quần chúng. Vì vậy chi bộ nhà trường muốn tạo cơ hội cho đồng
chí gia nhập đảng CSVN”. (Sự kiên này tôi đã trình bày rõ chi tiết về cơ
hội vào đảng và lý do tôi từ chối thế nào, đã được trình bày trên diễn đàn này
trong một chương trình trước đây. Cũng như trước đó trên “Diễn đàn Bạn đọc” đài
(VOA) ngày 7-2-2018). Liên tưởng đến sự kiện này, tôi nghĩ đây có thể là thế
mạnh cho tôi khi làm việc với chấp pháp, để họ có thể làm việc với tôi theo một
mối quan hệ mang tính mâu thuẫn nội bộ hơn là mâu thuẫn đối kháng (một mất, một
còn). Nghĩa là trong chừng mực nào đó, từng được coi là “đồng chí nay có sai phạm
nghiêm trọng” hơn là một tội phạm phản động chống chế độ.
Vì thế tôi trả lời theo
chiều hướng ngụy biện để làm nhẹ tính chất tội phạm, gỡ tội. Đại để:
(1)- Tôi nói không chống chế độ với âm mưu lật đổ
chính quyền cách mạng, mà chỉ đấu tranh ôn hòa đòi các quyền dân chủ, dân sinh,
nhân quyền được quy định trong hiến pháp hiện hành. Tôi lập luận rằng, vì trước 30-4-1975, ở
Miền Nam có cả một chính quyền, quân đội được Mỹ hỗ trợ vũ khí, lương thực, đạn
dược, hậu cần… mà đã không chống nổi, thì nay, chúng tôi một nhóm người mới quy
tụ thành một tổ chức chưa đi vào đấu tranh đã bị phá vỡ, thì làm sao chúng tôi
chống để lật đổ chính quyền được. Thực tâm, chúng tôi chỉ muốn hình thành một tổ
chức đối lập xây dựng, đấu tranh ôn hòa bằng vũ khí nhân quyền, để thúc đẩy chế
độ tưng bước thực thi các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền, đã được ghi
trong Hiến pháp hiện hành, phù hợp với ước muốn của toàn dân; cũng là ước muốn
đã trở thành mục tiêu đấu tranh bao lâu nay của Hồ Chủ Tịch và các thế hệ đảng
viên cộng sản chân chính, cũng như những người yêu nước không phải đảng viên CS
như cha tôi. Tất cả đã chiến đấu và hy sinh cho các mục tiêu, lý tưởng tối hậu
và cao cả.
(2)- Về lý do cá nhân chống chế độ khi tôi có cơ hội
tiến thân trong chế độ mới
Tôi dùng ngay sự kiện từ
chối cơ hội vào đảng CSVN và những ưu quyền đặc lợi sẽ được hưởng như anh công
an khu vực trường học (Thiếu úy S. năm 1992 đã là Trung tá Trưởng cộng an một
Quận nội thành) đã đưa ra một số quyền lợi tôi sẽ được hưởng nếu tôi gia nhập đảng
CSVN. Cụ thể: tôi sẽ được tăng lương, biên chế vào Ban giám hiệu, muốn công tác
bất cứ trường nào trong thành phố sẽ được giải quyết, khi công tác có nhu cầu
tài chánh bao nhiêu cũng sẽ được cứu xét, đáp ứng… nếu tôi vào đảng. Tất cả tôi
muốn chứng tỏ động lực vị tha (vì dân, vì nước) trong sáng của mình khi
tham gia vào một tổ chức mang tính đối lập xây dựng để đấu tranh cho các quyền
dân chủ, dân sinh, nhân quyền. Tôi cũng nói rõ với anh công an đội trưởng chấp
pháp, là dù bị tù tội, tôi vẫn không ân hận, chấp nhận mọi hình phạt của đảng
và nhà nước. Vì trước khi làm tôi có suy nghĩ thấu đáo. Tôi nhận trách nhiệm.
Ngoài ra tôi cũng nói một
động lực tham gia MTNQ có tính chủ quan là do bất mãn. Vì đảng không tin tôi chỉ
vì tôi là người Công Giáo. Bằng chứng tôi nêu ra là kỳ hè năm học 1976-1977,
tôi được gửi đi học toàn thời gian khoảng một tháng về chủ nghĩa Mác-Lê để đào
tạo làm Tổ trưởng cho lớp học tập chính trị hè dành cho các giáo viên toàn
thành phố niên học 1976-1977. Mặc dầu tôi được trong Tổ bình bầu là cá nhân xuất
sắc của khóa học. Thế nhưng khi vào khóa học tập chính trị hè năm ấy, tôi đã
không được cử làm Tổ Trưởng, chỉ vì trong bài thu hoạch cuối khóa học tôi đã kết
luận rằng, qua khóa học này tôi đã thông suốt nhận thức, chỉ còn một tồn tại
trong tôi, là “Một người Việt Nam Công giáo như tôi, nếu đem hết năng lực,
nhiệt tình phục vụ nền giáo dục cách mạng, thì còn hạn chế gì không?” Tôi
nhớ sau khi đọc bài thu hoạch cá nhân cuối khoa học này, không khí trong phòng
họp Tổ như khựng lại một phút im lặng, mọi người có vẻ suy tư. Chị H.T.T Hiệu
phó Trường Nguyễn Thị Minh Khai (Gia Long cũ), lúc đó là Tổ phó ngồi
bên nói nhỏ với tôi “Tôi hiểu tâm trạng của Thắng, vì sau khi tiếp thu Hà Nội
sau Hiệp Định Genève 1954, tôi cũng có mấy người bạn Công giáo mang tâm trạng
hoang mang như Thắng. Nhưng sau thực tế cuộc sống sẽ hóa giải tất cả…” Trước
đó chị này cho tôi biết, chị là con gái quan đại thần H.Đ.D đã đi theo kháng
chiến sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chồng chị là luật sư tên V. Chị được điều
từ Miền Bắc vào Miền Nam sau 30-4-1975 được cử là Hiệu phó trướng Nguyễn Thị
Minh Khai. Được cấp cho một biệt thự trên đường Tú Xương. Lấy sự kiện này, tôi
đã cho rằng đảng đã không thực sự tin tôi, chỉ vì tôi là người Công Giáo, nên
tôi đã tham gia tổ chức MTNQVN và cũng từ chối cơ hội vào đảng CSVN. Tất nhiên
đây là lý do giả tạo, cũng chỉ là cách ngụy biện để làm nhẹ tính “phản động chống
chế độ” của mình.
Nhớ lại lúc đó tôi trả lời
câu hỏi trên rất mạch lạc, hào hứng, đôi lúc còn khua tay tự nhiên như ngoài đời
tôi thường diễn đạt khi tranh luận. Mắt tôi luôn nhìn thẳng và di chuyển theo
hướng di chuyển mặt nhìn nghiêng hay nhìn thẳng về phía tôi của viên đội trưởng.
Tôi muốn dùng mắt nhìn thẳng vào đối tượng để chứng tỏ sự tự tin, ngay thẳng.
Đây là cách tạo thế áp đảo trong các cuộc đối luận mà tôi đã học được đâu đó
khi làm luật sư ở Saigon trước 30-4-1975.
Tôi có cảm tưởng những gì
tôi nói được viên Đội trưởng chấp pháp quan tâm, suy tư khiến tôi càng hứng thú
nói hăng hái. Tôi vững tin hơn khi liên tưởng đến lời cầu nguyện trước khi bước
ra khỏi biệt giam đi gặp chấp pháp làm việc “lạy Chúa, xin ban ơn Chúa
Thánh Thần soi sáng cho con biết hành động khôn ngoan”. Lời nguyện này trở
thành thói quen trong các lần đi gặp làm việc với chấp pháp sau đó. Về đức tin
tôn giáo, trước khi vào tù, tôi không phải là một tín hữu sùng đạo, song luôn
giữ đạo nghiêm túc, tuân giữ lề luật của giáo hội và thực hành đức tin qua đam
mê hoạt động xã hội. Thời Trung, Tiểu học thì tham gia các đoàn thể tôn giáo.
Lên Đại học thì thành lập và hoạt động trong đoàn công tác xã hội liên khoa, gồm
các sinh viên đồng môn Trung học công lập Ban mê thuột qui tụ trong Hội Ái hữu
Trung học Ban mê thuột. Ngoài các hoạt động ái hữu tương thân tương ái là
chính, chúng tôi thỉnh thoảng tổ chức các cuộc lạc quyên cứu trợ nạn nhân thiên
tai hay chiến tranh. Tôi được các đồng môn Trung học BMT bầu là Chủ tịch Ủy ban
cứu trợ cho BMT và hoạt động tích cực cho đến khi quân đội CSBV tiến vào Sài
Gòn ngày 30-4-1975. Giờ đây vào tù, đức tin tôn giáo là chỗ dựa duy nhất có thể
cứu tôi. Vì vậy, tôi nghĩ đến và nghĩ ra lời cầu nguyện với Chúa trước khi đi
làm việc với chấp pháp như trên.
Khác với người tiền nhiệm
tên H., tôi không gọi đội trưởng chấp pháp tên N. là cán bộ, mà xưng hô anh và
tôi. Nhưng không thấy anh ta nói gì, im lặng và kiên nhẫn ngồi nghe tôi nói
thao thao cả giờ đồng hồ về câu hỏi được đặt ra như vừa trình bày.
Trở lại buổi làm việc đầu
tiên với đội trưởng chấp pháp T. A. N. Sau khi chăm chú nghe tôi trả lời có vẻ
hăng say câu hỏi trên, tôi thấy dường như có sự chuyển biến tư duy của viên Đội
trưởng chấp pháp, theo chiều hướng có nhiều thuận lợi cho tôi. Vì tôi thấy được
sự chuyển biến thể hiện trên khuôn mặt và thái độ lời nói, cư xử của N. với tôi
sau đó. Anh ta có vẻ cởi mở và nói với tôi trong khi chờ trại giam cho phép viết
thư, tôi có thể viết thư ngay bây giờ gửi cho vợ tôi để anh chuyển cho. Tôi có
hơi nghi ngờ hậu ý không tốt của sự cho phép viết thư không bình thường này.
Nhưng càng về sau, tôi mới biết tôi đã nghi ngờ sai về lòng tốt của viên Đội
trưởng chấp pháp này. Lòng tốt được thể hiện ra sao tôi sẽ kể lại sau. Chỉ biết
rằng trong niềm tin của mình, tôi tin rằng Chúa đã gửi đến một người để cứu
tôi. Vì nếu không có sự thay đổi, tôi sẽ phải làm việc với Đội trưởng chấp pháp
tên H., gốc Nghệ Tĩnh, cái nôi của cách mạng Đỏ, nơi sản sinh ra các lãnh tụ CS
hàng đầu như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn. H. là người tôi đánh giá rất “Bolsevic” (tên
đảng CSLX, với nghĩa bóng là “rất chuyên chính kiểu cộng sản”, theo kiểu đảng
CS Bolsevic Nga đối xử tàn ác, không khoan nhượng với người dân Nga bị coi là kẻ
thù của chế độ XHCN thiết lập sau cách mạng Tháng 10 -1917 lật đổ chế độ Nga
Hoàng.
Khoảng gần 2 tuần sau khi
làm việc với Đội trưởng chấp pháp T.A.N, lần đầu tiên tôi nhận được quà của vợ
tôi gửi cho, vào đúng dịp lễ Giáng Sinh đầu tiên trong tù, Giáng sinh năm 1978.
GIÁNG SINH ĐẦU
TIÊN TRONG BIỆT GIAM SỐ 6 KHU C.2.
Nhận được quà nuôi chứ
chưa được thăm để gặp mặt, chỉ khoảng một tuần trước lễ Giáng sinh 25-12-1978.
Tôi rất vui mừng vì từ hôm bị đưa vào nhà tù số 4 Phan Đăng Lưu, hàng ngày tôi
chỉ ăn bobo với nước muối pha loãng. Những ngày sống ở buồng giam tập thế số 8,
thỉnh thoảng tôi cũng được anh em bạn tù có thăm nuôi hàng tháng chia sẻ cho
chút ít đồ ăn nên cũng đỡ khổ. Nhưng mấy tuần bị nhốt trong biệt giam thì ngày
nào cũng cố nuốt bobo với nước muối. Nay nhận được đồ nuôi của vợ gửi cho, tôi
nghĩ ngay đến việc chia sẻ chút ít muối mè, mì gói cho mấy anh em chưa có thăm
nuôi ở buồng giam tập thể số 8. Tôi lén nhờ một anh làm lao động khi chia phần
ăn cho tôi đưa chút ít đồ ăn cho anh Trần Liệu để anh chia sẻ cho anh em bạn tù
chưa có thăm nuôi.
Anh làm lao động này là một
trong hai người làm nhiệm vụ phát đồ ăn cho các buồng giam Khu C.2. Anh này trạc
ngoài 20 tuổi, có cha tập kết, sống với mẹ ở Miền Nam, được làm trong công ty vận
chuyển hải sản. Bị bắt giam trong một chuyến chở cá lóc từ Miền Tây về Sài Gòn,
đã tuồn ra bán lậu. Anh này người Miền Nam phóng khoáng, lại có thế, nên sẵn
sang chuyển đồ cho anh em, dù nội quy trại giam cấm. Còn người lao động thứ hai
là một anh tù già gốc Nghệ Tĩnh, khoảng ngoài 50 nhưng khuôn mặt khắc khổ như
người già ngoài 60. Ông ta là cán bộ đảng viên cộng sản, bị bắt ở tù vì tội
tham ô, những vẫn còn rất Bolsevic” (rất cộng sản). Mặc dầu ở tù
anh lao động này vẫn ca ngợi “Bác và Đảng ta”, vẫn tin vào duy vật biện chứng về
tình cha mẹ với con cái. Ông ta có lần nói bô bô “Tình nghĩa gì? Khi con cái
sinh ra chỉ là kết quả của những giây phút khoái lạc …” Ông ta nói điều này
khi nghe ai đó lên án một đứa con bất hiếu, đã phải ngồi tù vì sát hại cha mẹ
vì tài sản, của cải chia cho con cái bất công sao đó. Vì thế, không ai giám nhờ
anh lao động già này làm bất cứ điều gì hay nói điều gì bị coi là phản động, có
thể bị báo cáo để tránh hại vào thân.
Đêm Giáng Sinh đầu tiên
trong tù 24-12-1978, trong bốn bức tường biệt giam số 6, ánh sáng mờ mờ hắt xuống
từ một bóng đèn ngủ trong khung lưới sắt thông hơi trên trần cao. Tôi nằm ngửa
trên bệ xi măng là giường ngủ của tù nhân, nhìn thấy hai con thằn lằn đuổi nhau
trên trần và biến mất rất nhanh sau khi cả hai chui qua lưới sắt. Không gian nhỏ
hẹp trong biệt giam hoàn toàn im lặng. Tôi nhớ về gia đình, không biết giờ này
Mẹ già, người vợ hiền và hai con thơ dại tôi đang làm gì? Tất cả có đi lễ đêm
Giáng sinh 24-12 tại ngôi Thánh đường họ lẻ Chánh Hưng, thuộc Giáo xứ Nam Hải,
Quận 8 Saigon như những Giáng sinh tôi còn ở nhà?
Trong đầu tôi vang vọng
những khúc nhạc thánh ca Giáng sinh quen thuộc. Tôi nằm nhắm mắt chờ đợi tiếng
chuông báo lễ Giáng sinh từ ngôi nhà thờ Gia Định cổ kính gần chợ Bà Chiểu phía
đường Nguyễn Chế Nghĩa. Đường này nối với ba đầu đường khác tạo thành ngã tư gồm:
Bạch Đằng chạy ra Hàng Xanh xa lộ Saigon, Biên Hòa, đường Lê Công Định chạy về
hướng Gò vấp, qua trường Hồ Ngọc Cẩn và đường Chi Lăng chạy qua Tòa Tỉnh Gia định
cũ về hướng Phú Nhuận. Khu vực này quá quen thuộc và có nhiều kỷ niệm với tôi
thời Việt Nam Cộng Hòa. Tôi nằm chờ đợi trong suy tư, thầm hát nhỏ bài Thánh ca
“Đêm Thánh vô cùng” và “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời” thường vang lên
trong các mùa Giáng sinh năm nào; mà hầu như tín đồ Công Giáo già trẻ nào đều
thuộc nằm lòng.
Bên ngoài biệt giam thì
hoàn toàn vắng lặng, bình thường như những đêm bình thường trong nhà tù số 4
Phan Đăng Lưu. Tôi dần thiếp ngủ mà không biết tiếng chuông báo hiệu lễ Giáng
sinh có vang lên từ tháp cao của ngôi thành đường cổ kính gần nhà tù hay không.
Tôi bị đánh thức khi tiếng vang lạch cạch cửa gió biệt giam được mở ra vào sáng
hôm sau, 25-12-1978, ngày lễ Giáng sinh chính thức của các giáo hội Thiên Chúa
Giáo trên khắp thế giới. Nhưng trong nhà tù của một chế độ cộng sản chủ trương
vô thần, vào thời gian mới thiết lập ở Miền Nam, dường như nhà cầm quyền không
muốn tù nhân thấy có gì đặc biệt hơn mọi ngày. Ngay cả ngoài nhà tù, trên cả Miền
Nam mới bị cộng sản hóa, khi chưa bị tù, tôi cũng thấy các sinh hoạt tôn giáo
nói chung, sinh hoạt trong các dịp lễ truyền thống của Công giáo nói riêng, như
Giáng sinh, cũng bị hạn chế rất nhiều. Bởi vì, dưới chế độ cộng sản vô thần,
tôn giáo bị coi như thuốc phiện mê hoặc con người, một lực lượng phản động mang
tính mâu thuẫn đối kháng (một mất, một còn) với chế độ. Vì vậy nhà cầm
quyền luôn coi tôn giáo là đối tượng phải đề phòng, ngăn chặn đẩy lùi từng bước,
tiến tới mục tiêu tối hậu là tiêu diệt hoàn toàn tôn giáo.
Kỳ tới: Từ biệt giam số 6
nhà tù Phan Đăng Lưu, đến cái Tết đầu tiên trong biệt giam số 9 công an TPHCM
1979.
Thiện
Ý
Houston, Giáng sinh 2020.
No comments:
Post a Comment