10
nhân vật chính trị Việt Nam năm 2020
28/12/2020
https://www.luatkhoa.org/2020/12/10-nhan-vat-chinh-tri-viet-nam-nam-2020/
Năm 2020, không có gì phải
nghi ngờ, là một năm đặc biệt bất thường. Nó đặc biệt bất thường với người Việt
Nam không phải chỉ vì đại dịch COVID-19, mà còn vì hàng loạt những sự kiện
chính trị chấn động, thậm chí, ít ai ngờ tới.
Luật Khoa lựa chọn 10
nhân vật tiêu biểu sau đây để khắc họa bức tranh chính trị Việt Nam trong cái
năm đặc biệt bất thường này.
*
1.
Lê
Đình Kình
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/1-5-1024x575.png
Ảnh: Green Trees.
Ngày 5/1/2012, cả nước
rúng động vì những tiếng súng phát ra từ một người nông dân, tên Đoàn Văn Vươn,
nhắm vào lực lượng công an. Tám năm sau, ngày 9/1/2020, cả nước lại sục sôi
vì những
tiếng súng khác. Hướng bắn lần này ngược lại: từ lực lượng công an nhắm vào
một lãnh đạo nông dân, tên Lê Đình Kình.
2020 chỉ cần chín ngày để
cướp đi mạng sống của một trong những nhân vật nổi bật nhất của chính trị Việt
Nam vài năm trở lại đây. Ông Lê Đình Kình, một đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam, cựu bí thư đảng ủy xã, đã dành những năm tháng cuối đời mình để lãnh đạo một
nhóm nông dân ở xã Đồng Tâm trong vụ
tranh chấp đất đai với chính quyền tại cánh đồng Sênh, huyện Mỹ Đức,
Hà Nội.
Ông Kình chết giữa cuộc đụng
độ với những đơn vị cảnh sát tinh nhuệ, và đó chỉ là một phần của cuộc đụng độ
khốc liệt nhất của nước Việt Nam hiện đại: cuộc
đụng độ giành và giữ đất. Ông chết đi, mang
theo luôn khẩu hiệu “Ruộng đất về tay dân cày” mà cái đảng ông trọn đời
phụng sự đã không tiếc lời cổ võ trong suốt lịch sử của mình.
Ông Lê Đình Kình là hiện
thân cho sự sụp đổ về lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi từ một đảng công
– nông, xây thành đắp lũy trên xương máu nông dân và hứa hẹn mang ruộng đất lại
cho dân cày, đã trở thành một đảng của giới tư bản đỏ, tôn thờ đồng đô-la và
ngoảnh lưng lại với những người mà họ từng thề nguyền sẽ phụng sự.
Ông Kình đã vĩnh viễn đi
vào lịch sử của không chỉ Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn đi vào lịch sử Việt
Nam nói chung, vì bi kịch của ông là bi kịch có tính đại diện cho cả một thời đại,
một thời đại xoay vần quanh chữ đất.
*
2.
BN17
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/2-7-1024x575.png
Câu chuyện về BN17 cũng được báo chí quốc tế theo
dõi. Ảnh: Christine Rösch/ The New Yorker.
“Bệnh nhân 17” (BN17) có
lẽ sẽ là cái biệt hiệu gắn liền với bệnh nhân COVID-19 này cả đời. Lý do vì cô
là ca bệnh khởi đầu cho đợt dịch COVID-19 thứ hai ở Việt Nam, ngày 5/3, sau khi
cả nước có 22 ngày không công bố bất cứ ca nhiễm nào mới.
Chủ tịch Hà Nội khi đó là
Nguyễn Đức Chung tổ chức họp
báo và tường thuật trực tiếp trên truyền hình, gọi đích danh cô và
thông tin cá nhân của cô. Danh sách những người tiếp xúc với cô kèm thông tin
cá nhân cũng nhanh chóng được chính quyền Hà Nội công bố và lan truyền trên mạng.
Một làn sóng chỉ trích mạnh mẽ nhắm vào cô. Cô đột nhiên nổi tiếng ngoài mong đợi.
Dư luận nhắm vào cô vì cô
đi từ nước có dịch về mà không khai báo y tế, sau đó còn lui tới rất nhiều nơi ở
Hà Nội. Do danh tính của cô bị chính quyền Hà Nội công khai, đời sống riêng tư
của cô trở thành đề tài bàn tán của công chúng.
BN17 là một bài học lớn
cho người Việt Nam về trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng trong thời kỳ dịch
bệnh, và cũng là một bài học lớn cho cả chính quyền lẫn người dân về quyền
riêng tư của bệnh nhân. Sau ca BN17, gần như không còn bệnh nhân COVID-19 nào
khác bị nêu tên công khai.
*
3.
Thủy
Tiên
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/3-3-1024x575.png
Ca sĩ Thủy Tiên đi
cứu trợ vùng lũ. Ảnh: VnExpress.
Miền Trung nước lớn, cô
ca sĩ Thủy Tiên đứng ngồi không yên nên xắn tay làm từ thiện, cứu giúp đồng bào
trong cơn hoạn nạn. Cô chắc không thể biết và không mong muốn việc làm của mình
lại có ý nghĩa chính trị lớn đến như vậy.
Việc một cá nhân cô gây
quỹ được đến 150
tỷ đồng trong vài tuần lễ ngắn ngủi là một gáo nước lạnh dội lên đầu
hàng trăm tổ chức đoàn thể phủ khắp các tỉnh, thành từ trung ương xuống địa
phương, bởi họ không làm được việc đó. Sẽ cần khảo sát cẩn thận, nhưng hiện tượng
Thủy Tiên gợi ý một điều rằng người dân tin một cô ca sĩ hơn chính quyền và các
tổ chức đoàn thể của chính quyền trong việc sử dụng những đồng tiền cứu trợ.
Không thể phủ nhận vai trò của chính quyền, nhưng thành công vang dội của một
cá nhân làm lu mờ vai trò của chính quyền đúng vào lúc người dân cần chính quyền
nhất.
Thủy Tiên cũng là hình ảnh
tiêu biểu cho những nỗ lực dân sự trong suốt năm 2020, khi đại dịch COVID-19
khuynh đảo thế giới và không loại trừ Việt Nam. Hình ảnh những người dân đùm bọc lẫn nhau trong cơn hoạn nạn cho thấy xã hội
dân sự luôn biết làm gì để lấp vào khoảng trống mà chính quyền và thị trường để
lại. Đó là dấu hiệu không thể khả quan hơn của một xã hội dân sự lành mạnh và cần
được tự do vận hành.
Và Thủy Tiên, một cách hết
sức tình cờ, đặt ra một nan
đề hiến pháp cho chính quyền: họ đang vi phạm quyền tự do… làm từ thiện
của người dân bằng Nghị định 64/2008/NĐ-CP, vốn quy định chỉ những đoàn thể được
nhà nước cho phép thì mới được tiếp nhận và phân phối tiền, hàng cứu trợ. Đây
là một văn bản pháp luật vi hiến rành rành vì vi phạm quyền xác lập giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản của công dân. Không ai trong chính quyền dành đủ sự
tôn trọng cho bản Hiến pháp do chính họ đặt ra để tuyên bố đó là một văn bản vi
hiến. Một tòa án hiến pháp vẫn là thứ xa xỉ mà người Việt Nam chưa thể có.
*
4.
Phạm
Đoan Trang
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/4-1-1024x575.png
Nhà hoạt động, nhà báo Phạm Đoan Trang. Ảnh: Thịnh
Nguyễn.
Không ai bất ngờ khi nhà
hoạt động dân chủ, nhà báo Phạm Đoan Trang bị công
an bắt đêm ngày 6/10/2020. Đoan Trang biết, công an biết, bạn bè Đoan
Trang biết, công chúng biết, đến các tổ chức và chính phủ nước ngoài cũng biết
ngày này sớm muộn gì cũng tới.
Kể từ năm 1975 đến
nay, Đoan Trang là một trong những người Việt Nam can đảm
nhất, một trong những nhà báo giỏi nhất, và là một trong những nhà hoạt động dân
chủ hiệu quả nhất. Thành tựu của cô trải dài từ những phân tích về mối quan hệ
Việt Nam – Trung Quốc trên báo chính thống, đến các báo cáo nhân quyền, đến các
tờ báo độc lập, và đến các cuốn sách căn bản về chính trị. Tên tuổi của cô còn
gắn với các phong trào xã hội đòi quyền biểu tình, quyền hội họp và quyền được
chính quyền lắng nghe.
Nhưng chính quyền không
những không lắng nghe mà còn dập tắt tiếng nói của cô và những người như cô. Giờ
đây, cô có thể bị tuyên án tù lên tới 20 năm vì “tuyên truyền chống nhà nước”.
Đoan Trang thuộc về thế hệ
đầu tiên sinh ra sau chiến tranh, trải qua tuổi thơ trong cái đói nghèo chung của
xã hội, chứng kiến xã hội thay đổi chóng mặt kể từ năm 1986 đến nay, và cũng là
thế hệ đầu tiên tốt nghiệp đại học đi làm với máy tính nối mạng. Cô bắt đầu sự
nghiệp năm 2000 như là một trong những phóng viên đầu tiên của VnExpress, trang
báo điện tử đầu tiên của Việt Nam.
Thế hệ của cô, những con
người của thế hệ 7x ấy, nói không ngoa, đã là sức sống của công cuộc Đổi Mới và
đóng một trong những vai trò chính trong việc định hình nên cái xã hội chúng ta
có ngày nay. Thế hệ đó đang ở độ chín của sự nghiệp, và sẽ là thế hệ nắm giữ
các vai trò chủ chốt nhất của xã hội trong ít nhất là 15 năm tới.
Đoan Trang, bằng cách
riêng của mình, đang đi đầu trong thế hệ của cô trong việc định hình những yếu
tố dân chủ của xã hội Việt Nam.
*
5.
Hồ
Duy Hải
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/5-1-1024x575.png
Tử tù Hồ Duy Hải. Ảnh: Gia đình cung cấp/ Amnesty.
Trong năm 2020, có lẽ
không người Việt Nam nào tuyệt vọng hơn tử tù Hồ
Duy Hải. Và có lẽ cũng không có người Việt Nam nào rơi từ đỉnh cao hy vọng
xuống vực sâu tuyệt vọng như Hồ Duy Hải.
Phiên
tòa giám đốc thẩm vụ án của anh khép lại vào ngày 8/5, cũng đồng thời
khép lại cửa sống, cửa minh oan gần như cuối cùng của anh. Hội đồng Thẩm phán của
Tòa án Nhân dân Tối cao đã không cho anh cơ hội nào và giữ nguyên bản án tử
hình đầy dấu hiệu oan sai.
Hồ Duy Hải là nạn nhân của
một cuộc khủng hoảng trầm trọng bậc nhất của xã hội Việt Nam: cuộc khủng hoảng
án oan. Anh nằm ở cung bậc cao nhất của cuộc khủng hoảng đó, khi đang chịu một
bản án tử hình oan. Nay ở độ tuổi 35, Hải đã dành phần lớn những năm tháng tuổi
trẻ của mình trong xà lim tử tù. Mười hai năm đó đã hủy hoại cuộc đời anh thế
nào thì chỉ có anh biết, quản giáo biết, chính quyền biết.
Hồ Duy Hải cũng là nạn
nhân của một trong những vấn đề thể chế trầm trọng nhất của xã hội Việt Nam:
thiếu vắng một hệ thống tư pháp độc lập. Trước mặt anh không phải là những điều
tra viên thông thường, mà là điều tra viên kiêm đảng viên; không phải là những
quan tòa bình thường, mà là quan tòa kiêm đảng viên; không phải là những quản
giáo thông thường, mà là quản giáo kiêm đảng viên. Nếu cơ hội để một cá nhân
con người thừa nhận cái sai của mình là 1 phần 100, thì cơ hội để một đảng
chuyên chế sửa cái sai của mình là 1 phần 1.000.
Hồ Duy Hải, bất hạnh thay
cho anh, lại cũng là nạn nhân của một trong những tâm lý chính trị phổ biến nhất
của xã hội Việt Nam: mắt đền mắt, răng đền răng, giết người phải đền mạng.
Tầng tầng lớp lớp bi kịch
hệ thống đè lên con người nhỏ bé này. Vì lý do gì đó, Hồ Duy Hải rơi vào đáy bi
kịch và phải lấy sinh mạng của mình ra để gánh chịu toàn bộ lỗi lầm của phần
còn lại của xã hội.
Hy vọng của Hồ Duy Hải vẫn
còn. Cứu lấy Hồ Duy Hải là mệnh lệnh đạo đức cho phần còn lại của cái xã hội
này.
*
6.
Các
luật sư của phiên tòa Hồ Duy Hải và Đồng Tâm
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/6-1-1024x575.png
Các luật sư bào chữa cho người dân Đồng Tâm và luật
sư Trần Hồng Phong (vụ Hồ Duy Hải – ảnh nhỏ). Ảnh: FB Manh Dang, Báo Pháp Luật
TPHCM.
Đánh nhau với cối xay gió
chính xác là cái việc mà các luật sư của hai phiên tòa Hồ
Duy Hải (tháng 5) và Đồng
Tâm (tháng 9) làm. Họ là Trần Hồng Phong (vụ Hồ Duy Hải); Đặng Đình Mạnh,
Nguyễn Văn Miếng, Ngô Văn Tuấn, Nguyễn Hà Luân, Lê Văn Luân, Hà Huy Sơn, Nguyễn
Khả Thành, Ngô Ngọc Trai, Trương Chí Công, Dương Lê Ước An, Bùi Hải Quảng, Phạm
Lệ Quyên và hai luật sư khác (vụ Đồng Tâm).
Họ không thắng vụ nào. Họ
thua rất đau. Thân chủ của họ hoặc là ngồi trong xà lim tử tù, hoặc là lĩnh những
bản án nặng nề/ oan khiên. Nhưng họ đã vớt vát lại những hy vọng sau cùng và niềm
tin sau cùng của không những thân chủ của họ, mà còn của cả xã hội, về một thứ
công lý tối thiểu nào đó.
Thứ mà họ đại diện là
khao khát công lý của xã hội, hay nói cho đúng hơn là nỗi gắng gượng để không
tuyệt vọng của xã hội. Bởi nếu các luật sư tuyệt vọng và buông xuôi, nếu xã hội
tuyệt vọng và buông xuôi, chắc chắn sẽ không có công lý nào cả, dù là tối thiểu.
“Mất hy vọng chính là kẻ thù của công lý”, đó là điều mà luật sư nhân quyền người
Mỹ Bryan Stevenson từng nói, sau khi đã giúp cho rất nhiều người da màu thấp cổ
bé họng thoát khỏi những bản án tử hình oan sai.
Nghe có to tát quá chăng?
Các luật sư chỉ làm đúng bổn phận nghề nghiệp của họ và mưu sinh thôi mà?
Không. Các luật sư trong hai vụ việc này đã làm quá bổn phận thông thường trong
nghề nghiệp của họ, khi tự biến mình thành những người vận động (advocate), khi
tự mình đưa thông tin từ bên trong tòa ra ngoài (vốn bị hạn chế), khi tự mình
tìm đến và tiếp xúc báo chí trong và ngoài nước, khi tự mình dùng công cụ mạng
xã hội để đấu tranh cho thân chủ của mình. Họ đã chấp nhận những rủi ro lớn để
làm tất cả những việc đó.
Xã hội Việt Nam cần thêm
rất nhiều những luật sư kiêm nhà vận động như vậy.
*
7.
Nguyễn
Mạnh Hùng
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/7-2-1024x575.png
Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Thông tin – Truyền
thông. Ảnh: Thời Đại.
Ông Nguyễn
Mạnh Hùng, một chính trị gia nắm giữ một bộ vốn không có nhiều quyền lực,
đã vụt sáng trở thành một trong những gương mặt được chú ý nhất của chính trường
Việt Nam. Vị cựu tổng giám đốc Viettel, trong hơn hai năm qua, đóng vai trò chủ
chốt trong nhiệm vụ chính trị thuộc loại trọng yếu nhất của Đảng Cộng sản Việt
Nam: kiểm soát Internet.
Ông được Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc (hay nói chính xác ra là Bộ Chính trị) giao
quyền bộ trưởng Bộ Thông tin – Truyền thông vào tháng 7/2018, hơn một
tháng sau khi Quốc hội thông
qua một đạo luật gây tranh cãi bậc nhất: Luật An ninh mạng. Chuyên môn
và kinh nghiệm quản trị một trong những tập đoàn công nghệ – viễn thông lớn nhất
cả nước đã góp phần biến ông trở thành người đặc biệt phù hợp cho sứ mệnh của bộ
này.
Dù là một bộ nhỏ và từng
không có nhiều quyền lực, vai trò của Bộ TT-TT đã lớn lên liên tục trong những
năm qua, phản ánh phần nào qua việc ngân sách nhà nước cấp cho bộ này tăng liên
tục: 893,790 tỷ đồng (2018), 993,680 tỷ đồng (2019), 1.332,990 tỷ đồng (2021). Không có thông tin công khai nào để công dân hiểu rõ
lý do tại sao ngân sách cấp cho bộ này tăng xấp xỉ 1,5 lần chỉ trong vòng bốn
năm, nhưng nhìn ở bề mặt, họ đã trở nên tích cực hơn nhiều trong vai trò kiểm
soát Internet.
Dưới thời Bộ trưởng Nguyễn
Mạnh Hùng, hai gã khổng lồ công nghệ thế giới là Google và Facebook gần như đã
quy phục chính quyền Việt Nam. Các quan chức cấp cao của Google và Facebook mỗi
năm đều đến Việt Nam vài lần. Số lượng yêu cầu kiểm duyệt nội dung từ Bộ TT-TT
gửi cho họ đều tăng chóng mặt, và tỷ lệ đáp ứng đã đạt tới con số 95%
(Facebook) và 90% (Google). Trong báo cáo gửi cho Quốc hội tháng 10 vừa qua, ông Hùng
long trọng thông báo rằng tỷ lệ chặn nội dung “chống phá Đảng, Nhà nước” đã lên
đến mức cao nhất từ trước tới nay.
Cũng dưới thời Bộ trưởng
Nguyễn Mạnh Hùng, một hệ sinh thái dịch vụ mạng xã hội trong nước đã bắt đầu
hình thành. Bên cạnh dịch vụ phổ biến Zalo đã có mặt từ lâu, các mạng xã hội Lotus,
Gapo cũng mới ra mắt, cùng với hàng loạt các
mạng xã hội nhỏ khác. Ông Hùng khẳng định Bộ TT-TT sẽ hỗ trợ truyền
thông và tháo gỡ chính sách để mạng xã hội nội địa phát triển, đóng vai trò kiến
tạo thị trường mạng xã hội nội địa. Mục tiêu của chính sách này khó có gì khác
hơn là dần dần thay thế các mạng xã hội nước ngoài, giúp chính quyền có công cụ
để mặc cả với Facebook và Google.
Một ngày nào đó, khi các
mạng nội địa đã phát triển và nếu Facebook hay Google không chịu hợp tác với
chính quyền nữa, phương án hạt nhân có thể được kích hoạt: chặn hoàn toàn hai dịch
vụ này và cho các mạng nội địa thay thế hoàn toàn. Khi đó, Việt Nam chính thức
nối đuôi Trung Quốc và tạo vỏ kén thông tin của riêng mình. Khi đó, ông Hùng sẽ
trở thành “anh hùng”.
*
8.
Cục
An ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/8-2-1024x575.png
Rất thầm lặng, Cục An
ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (A05, trực thuộc Bộ
Công an, gọi tắt là Cục An ninh mạng) đã và đang làm rất nhiều việc đằng sau
màn hình máy vi tính và điện thoại của chúng ta. Khác với sự ồn ào trên truyền
thông của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, Cục An ninh mạng gần như chỉ xuất hiện
trong các giấy mời, giấy triệu tập các “đối tượng”.
Giấy triệu tập nhà hoạt động Nguyễn
Quang A của Công an Hà Nội ghi rõ “làm việc liên quan đến kiến nghị của
Cục An ninh mạng…”. Thông tin báo chí chính thống đăng về vụ
bắt, tạm giam nhà báo Trương Châu Hữu Danh cũng nói rõ vai trò phối hợp
của Cục An ninh mạng với Công an Cần Thơ.
Trong một bài
viết đăng ngày 28/5 trên An ninh Thế giới về hoạt động của Cục An ninh
mạng trong đại dịch COVID-19, tờ báo của Bộ Công an cho biết Cục này đã “trực
tiếp đấu tranh với 13 đối tượng trọng điểm và phối hợp với công an các địa
phương xác minh, triệu tập đấu tranh hơn 1.300 đối tượng, củng cố hồ sơ xử lý
hình sự 4 đối tượng, xử phạt vi phạm hành chính hơn 300 đối tượng”.
Hiện chưa có số liệu năm
2020, nhưng thông tin chính thức về hoạt động của Cục An ninh mạng năm 2019 cho thấy họ đã
“tổ chức đấu tranh 27 chuyên án; triển khai 73 kế hoạch nghiệp vụ. Qua đó, phối
hợp, chuyển Cơ quan điều tra các cấp khởi tố 15 vụ án hình sự, 121 bị can, xử
phạt hành chính 254 đối tượng người nước ngoài, bàn giao Cơ quan điều tra các
nước 555 đối tượng”.
A05 mới ra đời tháng
8/2018, hai tháng sau khi Luật An ninh mạng được thông qua, trên cơ sở sáp nhập
Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (thành lập năm 2010) và
Cục An ninh mạng (thành lập năm 2014). A05 đóng vai trò then chốt, cùng với Bộ
TT-TT, trong việc kiểm duyệt Internet Việt Nam, bên cạnh vai trò phòng, chống tội
phạm thông thường. Năm 2020, với đại dịch COVID-19, là năm Cục An ninh mạng chứng
tỏ vai trò “canh gác” mạng Internet của mình.
*
9.
Tài
xế Grab
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2020/12/9-2-1024x575.png
Ảnh: Zing.vn.
Tài
xế Grab là hiện tượng kinh tế thuộc loại đáng chú ý nhất của khoảng
5-6 năm trở lại đây, với sự xuất hiện của Grab, Uber, Gojek và nhiều ứng dụng
chia sẻ khác. Thuật ngữ “nền kinh tế chia sẻ” (sharing economy) bỗng trở nên thời
thượng. Ở khắp nơi trên thế giới, các nhà phát triển ứng dụng này cũng đang va
chạm kịch liệt với các nhà làm luật do sự mới mẻ của nó, phá vỡ các khung chính
sách thông thường dành cho giới kinh doanh vận tải, tài xế và người sử dụng.
Tuy vậy, ở một nước kém phát triển như Việt Nam, vấn đề còn lớn hơn nhiều.
Ta hãy tạm bỏ qua chuyện
tài xế Grab nên được coi là “đối tác” hay người lao động, mức chiết khấu hiện
nay đã hợp lý hay chưa. Hầu hết các khía cạnh của mối quan hệ giữa tài xế và
Grab là chuyện riêng giữa họ với nhau, dựa trên quan hệ tự do thỏa thuận và quy
luật điều chỉnh của thị trường, người ngoài khó lòng dự phần được vào.
Thứ người ngoài có thể dự
phần được vào là phản ứng với tư cách người tiêu dùng trong mối quan hệ với
Grab và tài xế Grab, phản ứng với tư cách công dân trong mối quan hệ với chính
quyền nhằm tạo lập chính sách hợp lý để điều chỉnh loại hình kinh doanh mới mẻ
mà Grab đang theo đuổi.
Trong mọi trường hợp, ta
đều thấy địa vị lép vế của tài xế Grab trong mối quan hệ với tất cả các bên:
người tiêu dùng, Grab, và chính quyền.
Người tiêu dùng có thể bỏ
tài xế Grab và vẫn tìm được phương tiện khác để di chuyển ngay, dù mức độ tiện
lợi có thể không bằng. Grab có thể cắt hợp đồng với những tài xế phản đối họ mà
vẫn không lo thiếu nguồn cung “đối tác”, vì có vô số người khác cần tiền đến mức
sẵn sàng chạy xe cho Grab với mức chiết khấu thậm chí còn thấp hơn mức hiện
nay. Còn chính quyền là cái cành quá cao mà tài xế Grab – những công dân thấp cổ
bé họng – không bao giờ có thể với tới. Trong mối quan hệ với chính quyền, Grab
chiếm ưu thế tuyệt đối so với tài xế nhờ địa vị doanh nghiệp lớn của mình.
Thứ duy nhất mà tài xế
Grab có thể làm cho đến nay là chạy xe diễu hành thì cũng đã bị chính quyền Hà
Nội giải
tán. Họ không có các công cụ quan trọng nhất để tự bảo vệ được mình: quyền
tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, và quyền tự do biểu tình. Trong môi trường
chính trị Việt Nam, không ai cho phép một lực lượng đông đảo như tài xế Grab được
thực hành những quyền chính trị căn bản này, vì nó sẽ tạo ra mối đe dọa trực tiếp
tới uy tín, tính chính danh và thậm chí là sự tồn vong của chính quyền.
Hầu hết tài xế Grab xuất
thân từ tầng lớp ít cơ hội nhất, tham gia vào một loại hình kinh doanh mới mẻ
nhất, và phải chịu cơ chế quản lý của một trong những loại hình chính quyền yếu
kém nhất.
*
10.
Các
nhân viên y tế chống dịch
Ảnh: Tiền Phong.
Nhân vật số 10 tuy thầm lặng
nhưng là những người đóng vai trò then chốt trong việc đối phó với đại dịch
COVID-19.
Thông thường, nhân viên y
tế ở Việt Nam là đối tượng bị dư luận chỉ trích nhiều nhất. Nói không ngoa thì
ngành giáo dục và y tế là ăn “chửi” nhiều nhất, phần vì sự yếu kém và nhũng nhiễu
của hai ngành này không kém bất kỳ ngành nào, phần lại vì họ cung cấp những dịch
vụ thiết yếu bậc nhất và tiếp xúc với người dân nhiều nhất. Nhưng trong đại dịch
COVID-19, các nhân viên y tế ở khắp nơi đã làm nên câu chuyện thần kỳ của Việt
Nam, biến đất nước lạc hậu và chậm tiến của chúng ta trở thành một trong những
nước chống dịch thành công nhất thế giới.
Tính đến ngày 23/12, Bộ Y
tế báo cáo 1.420 ca nhiễm, 1.281 ca khỏi bệnh, và 35 ca tử vong. Nhìn sang một
nước có quy mô dân số và nền kinh tế gần tương đương với Việt Nam là Philippines, ta sẽ thấy Việt Nam chống
dịch hiệu quả như thế nào. Nước này đến nay (26/12) đã công bố hơn 467 nghìn ca
nhiễm, gần 28 nghìn ca đang điều trị, hơn 430 nghìn ca khỏi bệnh, và hơn 9
nghìn ca tử vong. Dĩ nhiên, bạn có thể nghi ngờ độ tin cậy của số liệu thống kê
Việt Nam, nhưng thực tế vẫn là Việt Nam đã khống chế được dịch.
Thành công của Việt Nam
được Liên Hợp Quốc, Quỹ
Tiền tệ Quốc tế công nhận, và câu chuyện Việt Nam xuất hiện trên những
hãng truyền thông lớn nhất thế giới: Washington
Post, The
Guardian, ABC, Fortune, The
Conversation, Axios…
Bất chấp việc Việt Nam được
cho là chống dịch thành công nhờ thể chế độc tài có khả năng kiểm soát xã hội ở
mức độ cao, các nhân viên y tế, bao gồm các bác sĩ, y tá, nhân viên hỗ trợ, đã
gánh rủi ro lây bệnh cao nhất và đứng ở tuyến đầu chống lại dịch bệnh. Họ xứng
đáng được tôn vinh vì những nỗ lực phi thường của mình.
No comments:
Post a Comment