Sunday, 6 December 2020

MỘT ĐẢNG THẤT BẠI (Foreign Affairs)

 


Một đảng thất bại (Phần 1)

Foreign Affairs

Đặng Sơn Duân dịch

05/12/2020

https://baotiengdan.com/2020/12/05/mot-dang-that-bai-phan-1/

 

Lời giới thiệu: Hẳn mọi người còn nhớ giáo sư về hưu Thái Hà của Trường Đảng Trung ương ở Trung Quốc. Vào tháng 8, bà bị khai trừ đảng sau khi một đoạn băng ghi âm phát biểu của bà về Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và Tập Cận Bình bị rò rỉ. Trong đó, bà gọi ĐCSTQ là “thây ma chính trị” và kêu gọi Tập từ chức.

 

Vị giáo sư hiện sống tại Mỹ này vừa có bài viết như một hồi ký ngắn với hơn 7.000 chữ được tờ Foreign Affairs đăng tải hôm nay 5.12.2020.

 

Là một nhà lý luận và là con cháu của gia đình cách mạng đỏ rực, giáo sư Thái Hà trở thành một nhà bất đồng chính kiến bất đắc dĩ. Bà luôn suy nghĩ tìm cách thúc đẩy con đường cải cách và mở cửa của Trung Quốc nhưng tất cả hy vọng đều sụp đổ dưới thời kỳ lãnh đạo của Tập Cận Bình.

 

Sự vỡ mộng cộng với vài sự kiện ngoài dự tính diễn ra khiến bà không còn đường lùi và quyết định đoạn tuyệt với chế độ ở Bắc Kinh.

 

Bài viết của bà mô tả lại sự loay hoay của giới lãnh đạo ĐCSTQ trong việc vận dụng lý luận Marx và xây dựng ý thực hệ chính thức của Trung Quốc trong nhiều thập niên, qua các thời kỳ của Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào cho đến Tập Cận Bình. Đồng thời, nó cũng tiết lộ nhiều thông tin thú vị về chính trường Trung Quốc, đặc biệt là trong công tác lý luận và tuyên truyền.

 

Là một người quan tâm đến chính trị Trung Quốc và Tập Cận Bình, tôi cảm thấy bài viết này rất thú vị, đáng đọc, đáng tham khảo nên dịch nhanh toàn văn (hơn 10.000 chữ bản tiếng Việt). Vì nó quá dài nên sẽ được chia ra làm 4 phần. Hy vọng mọi người cảm thấy bổ ích!

                                                        _____

 

 

                            MỘT ĐẢNG THẤT BẠI

                                                          Thái Hà  

                                   Foreign Affairs, January/February 2021

 

 

MỘT NGƯỜI TRONG CUỘC ĐOẠN TUYỆT VỚI BẮC KINH

 

Khi Tập Cận Bình lên nắm quyền năm 2012, tôi tràn đầy hy vọng vào Trung Quốc. Là giáo sư tại một trường đảng trứ danh đào tạo các quan chức cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), tôi có đủ hiểu biết về lịch sử, điều này khiến tôi nhận ra đã đến lúc Trung Quốc phải mở cửa hệ thống chính trị của mình. Sau hơn một thập niên trì trệ, ĐCSTQ cần cải cách hơn bao giờ hết và Tập Cận Bình, người đã ám chỉ khuynh hướng thay đổi, dường như là ứng viên tốt nhất để lãnh đạo cuộc cải cách này.

 

Khi ấy, tôi đã trải qua nhiều thập niên khó khăn trong việc khám phá ý thức hệ chính thức của Trung Quốc, mặc dù nhiệm vụ của tôi chính xác là truyền bá nó cho các quan chức Trung Quốc. Tôi từng là một người cuồng tín chủ nghĩa Marx, nhưng lúc đó tôi đã chia tay với chủ nghĩa Marx và ngày càng chuyển sang tư duy học thuật phương Tây để tìm kiếm đáp án cho các vấn đề Trung Quốc.

 

Tôi tự hào là người bảo vệ chính sách chính thức, nhưng vào thời điểm đó tôi bắt đầu biện hộ cho tự do hóa. Tôi là một đảng viên trung thành của ĐCSTQ, nhưng vào thời điểm đó tôi nghi ngờ tính xác thực của niềm tin của ĐCSTQ và sự quan tâm của nó đối với người dân Trung Quốc.

 

Vì thế, tôi không ngạc nhiên khi hóa ra Tập Cận Bình không phải là một nhà cải cách. Trong thời kỳ cầm quyền của Tập, chế độ cộng sản Trung Quốc ngày càng thoái hóa thành một chế độ đầu sỏ chính trị, duy trì quyền lực một cách cực kỳ tàn khốc và vô tình. Sự áp bức và độc tài của nó ngày càng gia tăng. Được bao phủ bởi sự sùng bái cá nhân, Tập Cận Bình tăng cường hơn nữa sự kiểm soát của đảng đối với ý thức hệ và loại bỏ không gian ít ỏi còn lại của ngôn luận chính trị và xã hội dân sự.

 

Trong tám năm qua, nếu không sống ở Trung Quốc đại lục, bạn thực sự khó hiểu chế độ này đã trở nên tàn khốc như thế nào và nó đã tạo ra bao nhiêu bi kịch thầm lặng. Sau khi công khai phản đối chế độ này, tôi biết rằng mình không còn an toàn khi sống ở Trung Quốc.

 

SỰ TRƯỞNG THÀNH CỦA MỘT NGƯỜI CỘNG SẢN

 

Tôi sinh ra trong một gia đình quân nhân cộng sản Trung Quốc. Năm 1928, vào giai đoạn đầu của cuộc nội chiến quốc cộng, ông ngoại tôi đã tham gia cuộc khởi nghĩa của nông dân do Mao Trạch Đông lãnh đạo. Trong Đệ nhị Thế chiến, quốc cộng đình chiến. Bố mẹ tôi và một số thành viên trong gia đình mẹ tôi gia nhập quân đội do ĐCSTQ lãnh đạo và tham gia Chiến tranh kháng Nhật.

 

Sau chiến thắng của Đảng Cộng sản năm 1949, cuộc sống của những gia đình cách mạng như chúng tôi thật tuyệt vời. Cha tôi là chỉ huy một đơn vị quân đội ở gần Nam Kinh, còn mẹ tôi phụ trách một cơ quan của chính quyền thành phố nơi đóng quân của ông ấy. Bố mẹ tôi không cho phép tôi và hai chị em tôi hưởng một sự đãi ngộ đặc biệt nào, vì sợ chúng tôi trở thành những “tiểu thư tư sản hư hỏng”.

 

Chúng tôi không bao giờ được phép đi xe công vụ của cha tôi và những cảnh vệ không thể làm việc nhà cho gia đình tôi. Tuy nhiên, tôi được hưởng lợi từ địa vị của cha mẹ và có một cuộc sống không phải lo lắng, chưa bao giờ trải qua những khốn khổ mà đại đa số người Trung Quốc trải qua thời Mao. Tôi không biết gì về hàng chục triệu người chết đói trong thời kỳ Đại Nhảy vọt.

 

Những gì tôi nhìn thấy trước mắt là một tương lai tươi sáng của chủ nghĩa xã hội. Tủ sách của tôi chứa đầy những cuốn sách về chủ nghĩa Marx-Lenin, chẳng hạn như “Tuyển tập Stalin” và “Cán bộ cần phải đọc”. Tôi nhớ khi còn là một thiếu niên, tôi đã sử dụng những cuốn sách này trong một bài đọc ngoại khóa. Bất cứ khi nào mở chúng ra, tôi đều cảm thấy tràn ngập sự tôn kính. Mặc dù tôi không hiểu những quan điểm phức tạp trong cuốn sách, nhưng sứ mệnh của tôi trong cuộc sống rất rõ ràng: Tôi phải yêu quê hương đất nước, kế thừa truyền thống cách mạng của ông cha, xây dựng một xã hội cộng sản không bị bóc lột và áp bức. Tôi là một tín đồ nhiệt thành.

 

Sau khi nhập ngũ năm 17 tuổi vào năm 1969, tôi đã hiểu sâu hơn về chủ nghĩa cộng sản. Khi Cách mạng Văn hóa diễn ra sôi nổi, Mao Trạch Đông yêu cầu mọi người đọc sáu tác phẩm của chủ nghĩa Marx-Lenin, bao gồm cả Tuyên ngôn Cộng sản. Có một đoạn trong cuốn sách mô tả một xã hội lý tưởng để lại ấn tượng khó phai trong tôi: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Mặc dù tôi không hoàn toàn hiểu ý nghĩa của khái niệm tự do vào thời điểm đó, nhưng những từ đó vẫn lởn vởn trong tâm trí tôi.

 

Quân đội phân công tôi công tác tại Đại học Quân y, nhiệm vụ của tôi là quản lý thư viện, nơi có các tác phẩm “phản động”, phần lớn là bản dịch tiếng Trung của văn học phương Tây và lý luận chính trị. Được phân biệt bởi bìa màu xám, những cuốn sách này chỉ dành cho những người bên trong chế độ, với mục đích là để họ hiểu những kẻ chống đối ý thức hệ Trung Quốc. Tôi đã bí mật đọc những cuốn sách này.

 

Đặc biệt gây ấn tượng với tôi là “Sự trỗi dậy và sụp đổ của Đệ tam Đế chế” của nhà báo Mỹ William Shirer và một số tiểu thuyết của Liên Xô. Tôi nhận ra có một thế giới tư tưởng khác bên cạnh các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Marx, nhưng tôi vẫn tin chủ nghĩa Marx là chân lý duy nhất.

 

Năm 1978, tôi rời quân đội và chuyển đến công tác tại công đoàn của một nhà máy sản xuất phân bón quốc doanh ở ngoại ô Tô Châu. Vào thời điểm đó, Mao Trạch Đông đã qua đời và Cách mạng Văn hóa đã kết thúc. Người kế nhiệm Mao, Đặng Tiểu Bình bắt đầu cải cách và mở cửa. Như một phần của cải cách và mở cửa, Đặng chiêu mộ một thế hệ cán bộ trẻ có ý thức cải cách để đào tạo họ thành những người kế nhiệm trong tương lai (Đệ tam thê đội).

 

Mọi tổ chức đảng ở địa phương đều phải chọn một số đảng viên cho “Đệ tam thê đội” và tổ chức đảng Tô Châu đã chọn tôi. Tôi được cử đến Trường Đảng thành phố Tô Châu để học trong hai năm, ở đó tôi và các bạn đồng môn học lý luận Marx và lịch sử ĐCSTQ. Chúng tôi cũng được học về các tác phẩm kinh điển của Trung Quốc, một môn học mà chúng tôi đã bỏ lỡ do sự gián đoạn giáo dục trong cuộc Cách mạng Văn hóa.

 

Tôi đã đọc “Tư Bản Luận” hai lần để hiểu sâu rộng lý luận Marx. Ảnh hưởng lớn nhất đối với tôi là lý luận của Marx về lao động và giá trị, rằng các nhà tư bản tích lũy của cải bằng cách bóc lột công nhân. Ngoài ra, phương pháp triết học và chủ nghĩa duy vật biện chứng của Marx cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi, từ đó Marx phát hiện ra hệ thống chính trị, pháp luật, văn hóa và đạo đức của chủ nghĩa tư bản dựa trên sự bóc lột kinh tế.

 

Khi ra trường năm 1986, tôi được mời ở lại trường đảng địa phương để giảng dạy do trường thiếu nhân lực. Tôi vui vẻ nhận lời, nhưng làm lãnh đạo thành phố thất vọng, họ nghĩ tôi có tương lai hứa hẹn hơn trong bộ máy cán bộ đảng. Tuy nhiên, công việc mới của tôi đã mở ra sự nghiệp học thuật của tôi trong hệ thống truyền bá ý thức hệ ĐCSTQ.

 

TỪ SINH VIÊN ĐẾN NGƯỜI THẦY

 

Trường Đảng Trung ương ở Bắc Kinh là đỉnh kim tự tháp trong hệ thống trường Đảng. Kể từ khi thành lập năm 1933, Trường Đảng Trung ương đã đào tạo nhiều thế hệ cán bộ cấp cao của ĐCSTQ quản lý bộ máy hành chính cấp thành phố trở lên trên khắp cả nước. Trường Đảng Trung ương có mối quan hệ mật thiết với các tầng lớp trong Đảng và luôn được lãnh đạo bởi một Ủy viên Bộ Chính trị. (Từ năm 2007 đến năm 2012, hiệu trưởng chính là Tập Cận Bình).

 

Vào tháng 6 năm 1989, chính phủ đàn áp những người biểu tình ủng hộ dân chủ trên Quảng trường Thiên An Môn, giết chết hàng trăm người. Riêng tôi, tôi cảm thấy kinh hoàng: Quân Giải phóng Nhân dân thậm chí còn bắn vào sinh viên đại học, điều này đi ngược lại quan niệm Quân đội Nhân dân bảo vệ nhân dân mà tôi đã tiếp nhận từ khi thơ ấu. Chỉ có bọn “quỷ” Nhật và bọn phản động Quốc dân đảng mới giết hại nhân dân. Những cuộc biểu tình này và sự sụp đổ của Cộng sản Đông Âu khiến các nhà lãnh đạo hàng đầu của ĐCSTQ hoảng sợ, họ kết luận cần phải chống lại sự lỏng lẻo ý thức hệ.

Trung ương Đảng yêu cầu các trường Đảng ở địa phương cử một số giáo viên đi học Trường Đảng Trung ương để củng cố tư tưởng Đảng. Trường Đảng Tô Châu của tôi đã cử tôi đến Bắc Kinh. Thời gian ngắn ngủi ở Trường Đảng Trung ương thôi thúc tôi học ở đó lâu hơn nữa. Sau một năm chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh, tôi được nhận vào học chương trình thạc sĩ của Khoa Lý luận Trường Đảng Trung ương. Vào thời điểm đó, tôi rất nhiệt tình với đường lối của ĐCSTQ, đến nỗi sau lưng tôi, các bạn cùng lớp gọi đùa tôi là “Bà già Marx”. Năm 1998, tôi nhận bằng Tiến sĩ và đứng vào hàng ngũ giảng viên của trường.

 

Một số sinh viên của tôi là nghiên cứu sinh chính quy được đào tạo về lý luận chính trị của chủ nghĩa Marx và tham gia các khóa học thường xuyên như lịch sử ĐCSTQ. Tuy nhiên, các học viên khác là cán bộ trung và cao cấp, trong đó có một số lãnh đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và quan chức cấp bộ. Một số học trò của tôi cũng là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ, gồm hàng trăm người, là cơ quan cao nhất trong bộ máy của ĐCSTQ và chịu trách nhiệm thông qua các quyết sách trọng đại.

 

Giảng dạy ở Trường Đảng Trung ương không hề dễ dàng. Máy quay video trong lớp học ghi lại các bài giảng của chúng tôi, để giám sát viên của chúng tôi xem lại. Chúng tôi phải làm cho các học viên có trình độ cao và có kinh nghiệm trong lớp cảm thấy nội dung của khóa học sinh động, nhưng không được quá uyển chuyển trong việc giải thích lý luận tư tưởng của đảng hoặc thu hút sự chú ý của mọi người vào những điểm yếu của nó. Nói chung, chúng tôi phải đưa ra những câu trả lời khôn ngoan trước những câu hỏi hóc búa từ các học viên là quan chức trong lớp.

 

Nhiều vấn đề của họ có liên quan đến mâu thuẫn nội tại khó hiểu của ý thức hệ chính thống, được tạo ra để đưa ra lời giải thích hợp lý cho các chính sách thực tế do ĐCSTQ thực hiện. Ví dụ, bản Hiến pháp sửa đổi của Trung Quốc năm 2004 tuyên bố chính phủ bảo vệ nhân quyền và tài sản tư hữu, nhưng chúng ta nên giải thích thế nào về quan điểm của Marx rằng hệ thống cộng sản nên xóa bỏ chế độ tư hữu? Đặng Tiểu Bình đề xuất “để một bộ phận nhân dân làm giàu trước” để tạo động lực mọi người và kích thích năng suất, nhưng liệu điều này có khớp với lời hứa của Marx về việc phân phối theo nhu cầu của chủ nghĩa cộng sản?

 

Tôi vẫn trung thành với ĐCSTQ, nhưng tôi liên tục đặt câu hỏi về niềm tin của mình. Vào những năm 1980, một số người trong giới học thuật Trung Quốc đã thảo luận sôi nổi về “chủ nghĩa nhân văn Marx”, xuất phát từ tư tưởng của Marx về việc nhấn mạnh sự phát triển toàn diện của nhân cách con người. Ngay cả khi không gian ngôn luận có thể chấp nhận được tiếp tục bị thu hẹp, vẫn có một số ít học giả tiếp tục cuộc thảo luận này đến những năm 1990. Tôi đã nghiên cứu “Bản thảo kinh tế và triết học năm 1844 của Marx”, trong đó tin rằng mục đích của chủ nghĩa xã hội là giải phóng các cá nhân. Tôi đồng quan điểm với những triết gia chủ nghĩa Marx nhấn mạnh tự do, đặc biệt là Antonio Gramsci và Herbert Marcuse.

 

Trong luận văn thạc sĩ của mình, tôi đã phê phán quan điểm mọi người phải luôn hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ đảng. Trong luận án tiến sĩ của mình, tôi đã thách thức quan niệm truyền thống của Trung Quốc về “phú quốc cường binh”. Tôi tin Trung Quốc sẽ mạnh lên chỉ khi đảng cho phép người dân Trung Quốc bình thường trở nên giàu có. Hiện tại, tôi đang tiến thêm một bước nữa.

 

Trong một số bài báo và bài phát biểu, tôi đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp nhà nước đang quá chiếm ưu thế trong nền kinh tế Trung Quốc, vì vậy cần phải cải cách hơn nữa để cho phép các doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh. Tôi cũng tin rằng không nên coi tham nhũng là sự băng hoại đạo đức của từng cá nhân cán bộ, mà là một vấn đề thể chế do sự kiểm soát của chính phủ đối với nền kinh tế.

 

(Còn tiếp)

 

                                                       ****

 

Một đảng thất bại (Phần 2)

Foreign Affairs

Đặng Sơn Duân dịch

06/12/2020

https://baotiengdan.com/2020/12/06/mot-dang-that-bai-phan-2/

 

LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

 

Quan điểm của tôi khớp một phần với suy nghĩ của Giang Trạch Dân, người kế nhiệm Đặng Tiểu Bình. Giang Trạch Dân quyết tâm phát triển kinh tế Trung Quốc, tìm kiếm các chính sách kích thích sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân và nỗ lực đưa Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.

 

Tuy nhiên, các chính sách này mâu thuẫn với các lý luận về kinh tế kế hoạch và tự cung tự cấp quốc gia mà ĐCSTQ chủ trương từ lâu. Vì tư tưởng của Marx, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình không thể giải quyết được những mâu thuẫn này, nên Giang Trạch Dân cảm thấy phải đề xuất một cái gì đó mới. Ông gọi nó là “Ba đại diện”.

 

Giống như những người khác, lần đầu tiên tôi nghe nói về lý thuyết mới này vào tối ngày 25 tháng 2 năm 2000, khi Đài truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV) phát sóng một báo cáo về “Ba đại diện”. Giang Trạch Dân nói ĐCSTQ phải đại diện cho ba khía cạnh ở Trung Quốc: đại diện cho “yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến”, một nền văn hóa tiến bộ và lợi ích của đa số người dân. Là một giáo sư tại Trường Đảng Trung ương, tôi lập tức nhận ra lý thuyết này báo hiệu một sự thay đổi lớn trong ý thức hệ của ĐCSTQ. Đặc biệt, điều đầu tiên trong “Ba đại diện” ngụ ý Giang Trạch Dân đã từ bỏ khái niệm cốt lõi của chủ nghĩa Marx rằng các nhà tư bản là một nhóm xã hội bóc lột. Thay vào đó, Giang Trạch Dân đã mở cửa đảng cho những người như họ, một quyết định mà tôi hoan nghênh.

 

Cơ quan phụ trách công tác tư tưởng của ĐCSTQ là Ban Tuyên truyền Trung ương chịu trách nhiệm tuyên truyền lý luận mới của Giang Trạch Dân, nhưng họ gặp một vấn đề rắc rối: “Ba đại diện” đã bị phe cực tả chỉ trích và họ tin rằng Giang Trạch Dân đã đi quá xa trong việc tranh thủ các doanh nghiệp tư nhân. Để tránh gây tranh cãi, Ban Tuyên truyền Trung ương đã chọn pha loãng lý luận. Tờ Nhân dân Nhật báo đã đăng một bài báo dài cả trang, chứng minh tính đúng đắn của “Ba đại diện” bằng cách trích dẫn chéo các tài liệu của Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.

 

Tôi thấy điều này không thuyết phục. Nếu chỉ để nhắc lại ý thức hệ hiện hữu thì tại sao phải đề xuất “Ba đại diện”? Tôi chán chường với cách giải thích hời hợt từ cơ quan tuyên truyền của đảng. Tôi quyết tâm tiết lộ ý nghĩa thực sự của “Ba đại diện”. Lý thuyết này thực sự đánh dấu sự khám phá táo bạo của Trung Quốc. Và nó cũng sẽ khiến tôi xung đột với bộ máy quan liêu thâm căn cố đế của ĐCSTQ.

 

TINH HOA VÔ HỌC

 

Một cơ hội tình cờ vào đầu năm 2001 cho phép tôi nâng cao hiểu biết về “Ba đại diện”. Khi CCTV nghe nói tôi đặc biệt quan tâm đến lý luận mới của Giang Trạch Dân, họ mời tôi viết kịch bản để họ sản xuất chương trình truyền hình “Ba đại diện”. Tôi dành sáu tháng để nghiên cứu và viết phim tài liệu, cũng như thảo luận chi tiết với các nhà sản xuất đài truyền hình. Trong thuyết minh của mình, tôi nhấn mạnh chỉ có đổi mới chính sách mới có thể đáp ứng được những thách thức của thời đại mới. Tôi nhấn mạnh tuyên bố của Giang Trạch Dân: Nếu chính phủ muốn giảm can thiệp kinh tế, nhiệm vụ của đảng không còn là tạo ra các cuộc cách mạng bạo lực chống lại các nhà tư bản bóc lột mà là khuyến khích tạo ra của cải và cân bằng lợi ích của mọi thành phần trong xã hội.

Vào chiều ngày 16 tháng 6, bốn phó giám đốc của CCTV tập trung tại một trường quay trong trụ sở của đài để xem lại ba tập phim tài liệu dài 30 phút. Khi xem nó, sắc mặt của họ tối sầm lại. Vào cuối tập đầu tiên, một trong những phó giám đốc nói: “Chúng ta hãy dừng lại”.

 

“Thưa giáo sư Thái, giáo sư có biết tại sao giáo sư được mời làm phim “Ba đại diện” không?”, anh ta hỏi.

 

Tôi trả lời: “Đảng đã đề xuất một lý luận tư tưởng mới và chúng ta cần tuyên truyền nó”.

Vị quan chức này không hề bị lay chuyển. Anh ta tiếp tục nói: “Bà có thể nói về nghiên cứu và đổi mới của mình trong lớp học ở Trường Đảng, nhưng bà không thể nói về nó trên TV. TV phải rất an toàn”. Vào thời điểm đó, không có ai có thể xác định hàm nghĩa cuối cùng của “Ba đại diện”, anh ta lo lắng kịch bản của tôi có thể không phù hợp với quan điểm của Ban Tuyên truyền. “Nếu có bất kỳ sự khác biệt nào, tác động sẽ quá lớn”.

 

Một lãnh đạo đài khác phụ họa. “Năm nay là kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc!”, anh ta nói lớn. Một lễ kỷ niệm như vậy không đòi hòi cuộc thảo luận về những thách thức mà đảng phải đối mặt, mà là để kỷ niệm chiến thắng hào hùng của đảng. Vào lúc đó, tôi hiểu: Những người ở CCTV không quan tâm đến hàm ý thực sự của ý thức hệ, họ chỉ muốn làm cho đảng trông hào nhoáng và làm hài lòng cấp trên của họ.

 

Trong mười ngày tiếp theo, chúng tôi bận rộn làm lại bộ phim tài liệu. Chúng tôi đã cắt những từ nhạy cảm và làm việc suốt ngày đêm. Bài thuyết minh tôi viết được các nhóm quan liêu khác nhau trong đảng thẩm tra về mặt chính trị. Cuối cùng, hơn một chục quan chức đã họp để xét duyệt lần cuối cùng, nhưng lần này tôi càng nhìn thấy thói đạo đức giả trong đảng. Một quan chức cấp cao của ủy ban xét duyệt phát biểu tại cuộc họp. Trong tập thứ hai của bộ phim tài liệu, tôi đã trích dẫn câu nói nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình: “Nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội, phát triển mới là đạo lý cứng”.

 

Vị quan chức chất vấn: “Nghèo đói không phải là chủ nghĩa xã hội? Chủ nghĩa xã hội là gì?”. Anh ta tiếp tục phê bình, giọng càng lúc càng lớn. “Phát triển mới là đạo lý cứng? Làm thế nào hai câu này có thể liên kết với nhau? Hãy chỉ ra cho tôi!”.

 

Tôi chết lặng. Đây là những lời nguyên văn của Đặng Tiểu Bình, nhưng lãnh đạo Cục Quản lý nhà nước về Phát thanh, Điện ảnh và Truyền hình, một quan chức cấp cao trong một tổ chức quyền lực chịu trách nhiệm giám sát tất cả các phương tiện phát thanh truyền hình, thậm chí còn không biết? Tôi nghĩ ngay đến lời phê bình của Mao Trạch Đông đối với các quan chức thời Cách mạng Văn hóa: “Đừng đọc sách, đừng đọc báo”.

 

TƯ TƯỞNG SÁO RỖNG

 

Trong năm 2001, để tuyên truyền lý luận của Giang Trạch Dân, Ban Tuyên truyền Trung ương đề ra việc xây dựng đề cương nghiên cứu “Ba đại diện” làm tài liệu trung ương để phát hành cho toàn đảng học tập và thực hiện. Có lẽ vì tôi đã tham gia một chương trình CCTV và bày tỏ quan điểm của mình về “Ba đại diện” tại một hội nghị học thuật nên tôi được mời hỗ trợ.

 

Tôi được cử đến trung tâm đào tạo của Ban Tuyên truyền Trung ương gần Tây Sơn ở Bắc Kinh, cùng với một học giả và 18 quan chức của Ban Tuyên truyền. Ban Tuyên truyền Trung ương đã xác định kết cấu tổng thể của đề cương học tập, việc của chúng tôi là điền nội dung vào kết cấu. Nhiệm vụ của tôi là viết phần xây dựng đảng.

 

Các văn kiện khởi thảo cho trung ương được bảo mật cao. Tôi và đồng nghiệp bị cấm ra khỏi nơi viết lách, sinh hoạt, cũng như không được tiếp khách. Nếu Ban Tuyên truyền Trung ương triệu tập một cuộc họp, những người không được mời tham dự không được phép đặt câu hỏi về nó. Soạn giả chúng tôi có thể đi ăn và đi dạo cùng nhau, nhưng chúng tôi không được phép thảo luận về công việc. Tôi là người phụ nữ duy nhất trong nhóm.

 

Vào bữa tối, những người đàn ông nói chuyện phiếm và kể chuyện cười. Tôi nghĩ những câu chuyện phiếm có hơi men mang tính khiêu dâm như thế này là vô cùng thô tục và thường lẻn đi sau khi ăn vài miếng. Sau đó, một người tham gia gọi tôi sang một bên và giải thích với tôi rằng nói về công việc chính thức sẽ chỉ khiến chúng tôi gặp rắc rối. Do đó, sẽ an toàn và dễ chịu hơn nếu giới hạn phạm vi trò chuyện trong các vấn đề tình dục.

Hỗ trợ viết “đề cương học tập” là công việc viết lách quan trọng nhất trong đời tôi, nhưng cũng là phi lý nhất. Công việc của tôi là đọc qua một đống tài liệu ghi lại những suy nghĩ của Giang Trạch Dân, bao gồm các bài phát biểu mật và văn kiện nội bộ. Sau đó, tôi trích xuất các trích dẫn thích hợp có liên quan, đặt chúng dưới mỗi tiêu đề phụ và ghi rõ nguồn. Tôi không thể thêm hoặc xóa văn bản, nhưng tôi có thể thay đổi dấu chấm thành dấu phẩy và nối một dấu ngoặc kép này với một dấu ngoặc kép khác. Điều làm tôi kinh ngạc là sự giải thích chính thức về thay đổi tư tưởng quan trọng nhất của đảng thời hậu Mao không hơn gì một công việc cắt và dán.

 

Bởi vì nhiệm vụ rất đơn giản, tôi mất rất nhiều thời gian chờ đợi công việc của mình được xem xét một cách nhàm chán. Một ngày nọ, tôi ngập ngừng hỏi một giáo sư ở Đại học Nhân dân, người cùng tham gia biên soạn: “Không phải chúng ta đang biên soạn một phiên bản khác của “Mao chủ tịch ngữ lục” sao?, (đề cập đến một cuốn sách bỏ túi màu đỏ trích các câu cách ngôn của Mao trong Cách mạng Văn hóa). Anh ta nhìn quanh, cười ranh mãnh và nói: “Đừng lo lắng quá. Phong cảnh đẹp như thế này, đồ ăn thức uống ngon lành, tản bộ thoái mái, đãi ngộ hậu hĩnh như vậy biết tìm ở đâu? Tìm một cuốn sách để đọc, miễn là cô có mặt khi họ gọi đi họp”.

 

Vào tháng 6 năm 2003, cuộc họp báo về “Đề cương học tập tư tưởng trọng yếu của Ba đại diện” được tổ chức một cách trang trọng tại Đại lễ đường nhân dân ở Bắc Kinh. Tất cả những người tham gia biên soạn được mời tham dự. Lưu Vân Sơn, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên truyền trung ương lúc bấy giờ trình bày báo cáo. Khi ông ta và các quan chức khác biểu diễn trên sân khấu, tôi có cảm giác chìm đắm liên tục. Hiểu biết của tôi về “Ba đại diện” như một điểm xoay trục quan trọng về ý thức hệ của đảng bị loại bỏ hoàn toàn khỏi tài liệu và được thay thế bằng những thứ khuôn sáo. Nhớ đến những câu chuyện phiếm dung tục trên bàn ăn hàng đêm, lần đầu tiên tôi cảm thấy hệ thống mà bấy lâu nay tôi coi là thiêng liêng lại quá vô lý đến mức không thể chấp nhận được.

 

(Còn tiếp)

 

                                                       *****

 

Một đảng thất bại (Phần 3)

Foreign Affairs

Đặng Sơn Duân dịch

06/12/2020

https://baotiengdan.com/2020/12/06/mot-dang-that-bai-phan-3/

 

TRIẾT LÝ BÁN HÀNG

Kinh nghiệm soạn thảo “đề cương học tập” cho tôi biết cái gọi là lý thuyết thiêng liêng do ĐCSTQ chủ trương thực chất là một công cụ ích kỷ dùng để lừa gạt người dân Trung Quốc. Tôi nhanh chóng biết được nó cũng là một thủ đoạn kiếm tiền. Một quan chức mà tôi biết làm việc trong Tổng cục Báo chí và Xuất bản, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt các ấn phẩm và tạp chí, đã kể cho tôi nghe một sự việc đáng lo ngại liên quan đến cuộc đấu tranh giành giật doanh thu xuất bản trong ĐCSTQ.

 

Trong nhiều năm, Nhà xuất bản Hồng Kỳ là một trong ba cơ sở chịu trách nhiệm xuất bản sách giáo dục trong ĐCSTQ. Vào năm 2005, cơ quan này bắt đầu xuất bản một cuốn sách thông thường về giáo dục đảng thì bị một quan chức của Ban Tổ chức Trung ương (cơ quan chịu trách nhiệm về các quyết định nhân sự của ĐCSTQ) can thiệp và nhấn mạnh chỉ có Ban Tổ chức Trung ương mới có quyền xuất bản cuốn sách như vậy. Quan chức này đã yêu cầu Tổng cục Báo chí và Xuất bản ngăn chặn việc xuất bản cuốn sách.

Tuy nhiên, công việc chính của NXB Hồng Kỳ là xuất bản sách về ý thức hệ. Để thoát khỏi tình trạng khó khăn, Tổng cục Báo chí và Xuất bản đã thẩm tra cuốn sách, hy vọng tìm ra một cái cớ để ngăn chặn việc xuất bản cuốn sách, nhưng thật khó xử là không tìm thấy lỗi gì.

 

Tại sao Ban Tổ chức Trung ương lại coi quyền xuất bản sách là lãnh địa của mình? Tất cả đều quy về tiền bạc. Nhiều phòng ban có quỹ đen của riêng họ, những quỹ này được sử dụng cho cuộc sống xa hoa của các quan chức cấp cao và phân phối “trợ cấp phúc lợi” cho nhân viên trong bộ phận. Cách dễ nhất để bổ sung những kho bạc nhỏ này là xuất bản sách. Vào thời điểm đó, ĐCSTQ có hơn 3,6 triệu tổ chức cơ sở và mỗi tổ chức được yêu cầu mua ấn phẩm mới.

 

Nếu mỗi cuốn sách được định giá 10 nhân dân tệ, sẽ có ít nhất 36 triệu nhân dân tệ doanh thu, tương đương hơn 5 triệu đô la Mỹ hiện nay. Vì tiền đến từ ngân sách công của chi bộ đảng địa phương, nên kế hoạch này về cơ bản buộc đảng và chính quyền địa phương sử dụng công quỹ để mua sách, mang lại lợi nhuận khổng lồ cho các tổ chức cấp cao của đảng. Hèn gì Ban Tổ chức Trung ương mỗi năm lại đẩy mạnh một chủ đề giáo dục chính trị mới. Không có gì ngạc nhiên khi hầu hết tất cả các tổ chức trong ĐCSTQ đều có bộ phận xuất bản của riêng họ. Hầu hết mọi bộ phận đều phát minh ra những cách mới để kiếm tiền và tham nhũng đã thâm nhập vào hệ thống ĐCSTQ.

 

Mặc dù tôi ngày càng thất vọng hơn, nhưng tôi không hoàn toàn cự tuyệt đảng. Giống như nhiều học giả trong hệ thống, tôi vẫn hy vọng ĐCSTQ có thể chấp nhận cải cách và tiến tới tới một phương hướng dân chủ nhất định. Trong phần sau của thời kỳ Giang Trạch Dân, ĐCSTQ bắt đầu dung túng các cuộc thảo luận tương đối thoải mái về các vấn đề nhạy cảm trong đảng, miễn là các cuộc thảo luận này không bao giờ được công khai.

Tại Trường Đảng Trung ương, tôi và đồng nghiệp có thể thoải mái thảo luận những vấn đề sâu xa trong thể chế chính trị của Trung Quốc. Chúng tôi thảo luận về việc giảm bớt vai trò của các quan chức đảng, để các quan chức hành chính phụ trách các công việc hành chính của chính phủ. Chúng tôi thảo luận về ý tưởng độc lập tư pháp đã được viết vào hiến pháp nhưng chưa bao giờ thực sự được thực thi.

 

Điều khiến chúng tôi vui mừng là ĐCSTQ đang thực sự thử nghiệm dân chủ trong nội bộ và trong xã hội cấp cơ sở. Tôi xem tất cả những điều này là những dấu hiệu đầy hy vọng của sự tiến bộ. Nhưng những sự kiện sau đó đã khiến sự vỡ mộng của tôi trở nên trầm trọng hơn.

 

MỘT CÁCH KHÁC

 

Một bước ngoặt quan trọng xảy ra vào năm 2008, khi tôi đến Tây Ban Nha trong chuyến thăm ngắn ngày dường như là định mệnh. Đến thăm đất nước này như một phần của cuộc trao đổi học thuật, tôi có thể tìm hiểu thêm về cách Tây Ban Nha chuyển đổi từ chế độ chuyên quyền sang dân chủ sau cái chết của nhà độc tài Francisco Franco vào năm 1975. Tôi không thể không so sánh kinh nghiệm của Tây Ban Nha với Trung Quốc.

 

Mao qua đời chỉ mười tháng sau cái chết của Franco và cả hai quốc gia đã trải qua những thay đổi to lớn trong ba thập niên sau đó. Tuy nhiên, Tây Ban Nha đã hoàn thành quá trình chuyển đổi dân chủ một cách nhanh chóng và hòa bình, đạt được ổn định xã hội và thịnh vượng kinh tế, trong khi Trung Quốc chỉ đạt được một phần chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế hỗn hợp, mà không tự do hóa chính trị. Tây Ban Nha có thể dạy gì cho Trung Quốc?

 

Kết luận bi quan của tôi là ĐCSTQ không có khả năng cải cách chính trị. Một mặt, sự chuyển đổi của Tây Ban Nha được khởi xướng bởi các lực lượng cải cách trong chế độ hậu Franco, chẳng hạn như Vua Juan Carlos I, người đã đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích cá nhân. ĐCSTQ nắm quyền bằng bạo lực vào năm 1949, bị ám ảnh bởi ý niệm rằng họ có được sự độc quyền vĩnh viễn về quyền lực chính trị. Lịch sử của ĐCSTQ, đặc biệt là việc đàn áp các cuộc biểu tình trên Quảng trường Thiên An Môn, cho thấy họ sẽ không từ bỏ sự độc quyền đó một cách hòa bình. Không một nhà lãnh đạo nào sau Đặng Tiểu Bình có đủ can đảm thúc đẩy cải cách chính trị mà chỉ đơn giản là muốn chuyển giao trách nhiệm này cho các nhà lãnh đạo tương lai.

 

Tôi cũng được biết sau cái chết của Franco, Tây Ban Nha đã nhanh chóng tạo ra một môi trường thuận lợi để cải cách, củng cố độc lập tư pháp, mở rộng tự do báo chí và thậm chí đưa các lực lượng đối lập vào quá trình chuyển đổi. Ngược lại, ĐCSTQ coi những đòi hỏi về công bằng kinh tế và xã hội là mối đe dọa đối với quyền lực của họ. Họ đàn áp xã hội dân sự và hạn chế nghiêm trọng quyền tự do của người dân. Trong nhiều thập niên, chế độ cộng sản Trung Quốc và nhân dân đối đầu nhau, khiến hòa giải trở thành chuyện khó có thể nghĩ đến.

 

Nhận thức mới về quá trình chuyển đổi dân chủ của Tây Ban Nha, cùng với nghiên cứu và hiểu biết của tôi về khối Liên Xô cũ đã khiến tôi từ bỏ căn bản ý thức hệ chủ nghĩa Marx mà tôi từng có niềm tin không thể lay chuyển. Tôi nhận ra lý luận mà Marx đưa ra trong thế kỷ 19 không chỉ bị giới hạn bởi trí tuệ của chính ông, mà còn bởi hoàn cảnh lịch sử thời đại của ông. Ngoài ra, tôi cũng nhận ra phiên bản chủ nghĩa Marx tập quyền cao độ và áp bức do ĐCSTQ chủ trương đến từ Stalin nhiều hơn chứ không phải từ chính Marx.

 

Tôi ngày càng nhận ra đó là một ý thức hệ được hình thành để phục vụ cho một chế độ độc tài tư lợi. Vì vậy, tôi bắt đầu ngụ ý trong các bài báo và bài giảng của mình rằng không nên coi chủ nghĩa Marx là chân lý tuyệt đối và Trung Quốc phải mở đường cho dân chủ. Vào năm 2010, khi một số học giả tự do xuất bản một chuyên đề “Hướng tới chủ nghĩa hợp hiến”, tôi đã đóng góp một bài báo thảo luận về kinh nghiệm của Tây Ban Nha.

 

Tầm nhìn chung của tôi với các học giả tự do khác là Trung Quốc sẽ bắt đầu bằng nền dân chủ nội đảng và sau một thời gian dài nỗ lực cuối cùng nó sẽ dẫn đến nền dân chủ hợp hiến. Trung Quốc sẽ có một quốc hội và thậm chí là một đảng đối lập thực sự. Trong thâm tâm tôi lo lắng ĐCSTQ có thể chống lại sự chuyển đổi này một cách thô bạo, nhưng tôi luôn giữ nỗi lo này cho riêng mình.

 

Ngược lại, khi nói chuyện với các đồng nghiệp và sinh viên, tôi nhấn mạnh sự chuyển đổi này có lợi cho Trung Quốc và chính đảng, đảng có thể củng cố tính chính danh của mình bằng cách tự chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhiều quan chức mà tôi từng dạy đã thừa nhận những vấn đề mà ĐCSTQ phải đối mặt, nhưng bản thân họ không thể nói ra. Họ thận trọng thúc giục tôi thuyết phục thượng cấp của họ.

 

THẤT VỌNG VỚI TẬP CẬN BÌNH

 

Vấn đề là vào thời điểm đó, người kế nhiệm Giang là Hồ Cẩm Đào đang đi theo hướng ngược lại. Năm 2003, khi Hồ Cẩm Đào vẫn đang trong quá trình tiếp quản và nắm quyền, ông ta đề xuất “Quan điểm phát triển khoa học” để thay thế “Ba đại diện” của Giang Trạch Dân. Khái niệm này là một nỗ lực khác nhằm biện minh cho mô hình phát triển hỗn hợp của Trung Quốc với lớp vỏ mỏng là ý thức hệ mang âm hưởng chủ nghĩa Marx. Nó tránh được những vấn đề cơ bản mà Trung Quốc phải đối mặt.

 

Trên thực tế, sự phát triển chóng mặt của Trung Quốc đang gây ra những xung đột xã hội, chẳng hạn như đất đai của nông dân bị thu hồi để phát triển và các nhà máy bóp nặn công nhân để kiếm thêm lợi nhuận. Số lượng người khiếu kiện tìm kiếm các biện pháp giải quyết của chính phủ tăng đáng kể, với hơn 100.000 vụ biểu tình trên toàn quốc mỗi năm. Theo tôi, những bất mãn này cho thấy trong bối cảnh không có tự do chính trị, việc phát triển kinh tế của Trung Quốc ngày càng trở nên khó khăn.

 

Tuy nhiên, Hồ Cẩm Đào không nghĩ như vậy. Năm 2008, trong buổi lễ kỷ niệm 30 năm cải cách và mở cửa, ông nói: “Đừng làm rối tung”. Tôi hiểu nhận xét của Hồ có nghĩa là những cải cách kinh tế, chính trị và ý thức hệ mà ĐCSTQ đã thực hiện cho đến nay có thể được duy trì, nhưng sẽ không được thúc đẩy. Hồ Cẩm Đào thực sự đang tự bảo vệ mình để tránh bị cáo buộc từ hai hướng: những người bảo thủ tin rằng cải cách đã đi quá xa, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do cho rằng nó vẫn chưa đi đủ xa. Do đó, dưới sự giám hộ của Hồ, Trung Quốc bước vào thời kỳ trì trệ chính trị, một quá trình suy thoái tương tự Liên Xô cũ trong thời kỳ Brezhnev.

 

Vì vậy, tôi lạc quan tin tưởng về Tập khi việc ông ta sẽ lên nắm quyền trở nên rõ ràng. Những cải cách dễ dàng đều đã được thực hiện cách đây 30 năm, bây giờ là lúc giải quyết những vấn đề khó khăn. Với danh tiếng của cha ông Tập, một cựu lãnh đạo ĐCSTQ với khuynh hướng tự do, và phong cách linh hoạt mà chính Tập đã thể hiện trong các chức vụ trước đây, tôi và những người ủng hộ cải cách khác hy vọng nhà lãnh đạo mới của chúng tôi sẽ có can đảm thực hiện những thay đổi táo bạo đối với hệ thống chính trị Trung Quốc.

 

Tuy nhiên, không phải ai cũng có niềm tin như vậy đối với Tập Cận Bình. Những người hoài nghi mà tôi biết được chia thành hai loại và cả hai đều đã được chứng minh là nhìn xa trông rộng.

 

(Còn tiếp)

 

                                                       *****

 

Một đảng thất bại (Phần cuối)

Foreign Affairs

Đặng Sơn Duân dịch

06/12/2020

https://baotiengdan.com/2020/12/06/mot-dang-that-bai-phan-cuoi/

 

Nhóm người hoài nghi đầu tiên là các thái tử đảng – hậu duệ của những người sáng lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tất nhiên, Tập Cận Bình là một thái tử đảng, và Bạc Hy Lai, bí thư thành ủy Trùng Khánh năng động cũng vậy.

 

Tập Cận Bình và Bạc Hy Lai gần như vươn lên các chức vụ cấp tỉnh và cấp bộ cùng lúc, họ được dự đoán sẽ vào Thường vụ Bộ Chính trị, cơ quan chính trị cao nhất của ĐCSTQ và được coi là những đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ cho các vị trí lãnh đạo cao nhất. Tuy nhiên, Bạc Hy Lai văng khỏi cuộc cạnh tranh vị trí lãnh đạo vào đầu năm 2012, khi dính líu đến vụ vợ ông ta sát hại một doanh nhân người Anh và các nguyên lão chính trị của đảng đã ủng hộ một Tập Cận Bình an toàn và vững vàng.

 

Một số thái tử đảng mà tôi biết hiểu rõ về sự tàn khốc vô tình của Tập Cận Bình và họ dự đoán tranh chấp Tập-Bạc sẽ không kết thúc ở đây. Đúng như dự đoán, sau khi Tập Cận Bình lên nắm quyền, Bạc Hy Lai bị kết tội tham nhũng, bị tước hết tài sản và bị kết án tù chung thân.

 

Một kiểu hoài nghi khác là một số học giả trong hệ thống. Hơn một tháng trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 của ĐCSTQ được tổ chức vào tháng 11 năm 2012, khi Tập Cận Bình sắp chính thức trở thành Tổng bí thư ĐCSTQ, tôi trò chuyện cùng một phóng viên kỳ cựu của một tạp chí lớn của Trung Quốc và một giáo sư nổi tiếng hàng đầu trong trường chúng tôi, người từng quan sát Tập Cận Bình trong thời gian dài.

 

Buổi phỏng vấn của họ diễn ra rất thoải mái, vui vẻ và trước khi rời đi, người phóng viên dường như đưa ra một câu hỏi ngẫu hứng: “Tôi nghe nói ông Tập Cận Bình đã sống trong khuôn viên Trường Đảng Trung ương một thời gian. Bây giờ ông ta sắp trở thành tổng bí thư. Giáo sư nghĩ gì về ông ta?”. Vị giáo sư mím môi khinh khỉnh buông một câu Tập Cận Bình “không đủ kiến thức”. Tôi và người phóng viên sững sờ trước câu trả lời thẳng thắn này.

 

Bất chấp những ý kiến tiêu cực này, tôi sẵn sàng gạt bỏ những hoài nghi của mình sang một bên và đặt hy vọng vào Tập Cận Bình. Nhưng ngay sau khi Tập Cận Bình nhậm chức, tôi bắt đầu có nghi vấn. Trong bài phát biểu của mình vào tháng 12 năm 2012, ông ta đưa ra gợi ý về một tinh thần cải cách và tiến bộ, nhưng những nhận xét khác của ông ta ám chỉ sự quay trở lại thời kỳ tiền cải cách. Tập Cận Bình là tả hay hữu? Tôi vừa nghỉ việc ở Trường Đảng Trung ương, nhưng tôi vẫn giữ liên lạc với các đồng nghiệp cũ.

 

Khi chúng tôi nói về một số kế hoạch của Tập Cận Bình, một người trong số họ nói: “Tập hướng tả hay hướng hữu không phải vấn đề, nhưng ông ấy thiếu khả năng phán đoán cơ bản và nói một cách phi logic”. Ngay sau khi nhận xét này được đưa ra, tất cả mọi người đều im lặng. Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Với những khiếm khuyết như thế này, làm sao chúng tôi có thể mong đợi ông ta lãnh đạo một cuộc đấu tranh cải cách chính trị?

 

Tôi nhanh chóng kết luận chúng tôi có lẽ không thể tin tưởng vào ông ta. Sau khi Tập Cận Bình đưa ra kế hoạch cải cách toàn diện vào cuối năm 2013, giới kinh doanh và học thuật hào hứng dự đoán ông ta sẽ tiến hành những cải cách lớn. Cảm giác của tôi hoàn toàn ngược lại. Kế hoạch đã tránh tất cả các vấn đề then chốt của cải cách chính trị. Tình trạng tham nhũng lâu đời của Trung Quốc, nợ nần chồng chất và các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, gốc rễ của vấn đề là các quan chức đảng có quyền can thiệp vào quá trình ra quyết định kinh tế mà không có sự giám sát của công chúng.

 

Những nỗ lực nhằm đạt được tự do hóa kinh tế trong khi thắt chặt kiểm soát chính trị mâu thuẫn với nhau. Tuy nhiên, Tập Cận Bình đã phát động một phong trào ý thức hệ lớn nhất kể từ khi Mao Trạch Đông qua đời để phục hưng sự cai trị của chủ nghĩa Mao. Kế hoạch của ông ta kêu gọi tăng cường giám sát xã hội và đàn áp quyền tự do ngôn luận. Lệnh cấm đối với bất kỳ cuộc thảo luận nào về dân chủ hợp hiến và các giá trị phổ quát được quảng bá một cách vô sỉ dưới ngọn cờ “trị lý, quản lý, phục vụ và luật pháp”.

 

Một gói cải cách luật pháp được thông qua vào năm 2014 cho phép xu hướng này tiếp diễn, cho thấy ý định của ĐCSTQ trong việc duy trì sự cai trị toàn trị bằng cách sử dụng luật pháp như một công cụ. Đến lúc này, khuynh hướng ngang ngược của Tập Cận Bình và sự thoái trào chính trị của ĐCSTQ đã trở nên rõ ràng. Nếu trước đây tôi có chút hy vọng mơ hồ vào Tập Cận Bình và đảng, thì giờ phút này ảo tưởng của tôi cuối cùng cũng tan tành.

 

Những sự kiện tiếp theo chỉ có thể khẳng định rằng trong chừng mực bản thân công cuộc cải cách, Tập Cận Bình đã đẩy Trung Quốc từ trì trệ đến thoái trào. Năm 2015, ĐCSTQ đã bắt giữ hàng trăm luật sư nhân quyền. Năm sau, họ phát động một chiến dịch theo phong cách Cách mạng Văn hóa để phê phán một ông trùm bất động sản trực ngôn. Phản ứng của tôi trước trò hề đó đã khiến tôi lâm vào tình thế khó khăn.

 

GIỌT NƯỚC TRÀN LY

 

Xung đột giữa nhà tài phiệt Nhậm Chí Cường và Tập Cận Bình ngày càng căng thẳng, ông ta chỉ trích Tập Cận Bình kiểm duyệt truyền thông Trung Quốc. Vào tháng 2 năm 2016, một trang web của ĐCSTQ đã dán nhãn Nhậm Chí Cường là “phản Đảng”. Cá nhân tôi không biết Nhậm, nhưng trường hợp của ông ta rất đáng lo ngại vì từ lâu tôi đã tin vào nguyên tắc này: trong nội bộ ĐCSTQ, chúng tôi được phép và thậm chí được khuyến khích tự do phát biểu để giúp ĐCSTQ sửa chữa những sai lầm của mình.

 

Một thành viên kỳ cựu của đảng đang bị bêu riếu như yêu ma vì làm như vậy. Sau khi trải qua Cách mạng Văn hóa, tôi biết những người bị gắn mác “phản Đảng” sẽ bị tước đoạt quyền lợi và bị đàn áp nghiêm trọng. Vì các bài báo bênh vực Nhậm không bao giờ được phép xuất bản trên các phương tiện truyền thông bị kiểm duyệt, tôi đã gửi bài viết của mình đến một nhóm WeChat, hy vọng bạn bè của tôi sẽ chia sẻ nó với những người liên hệ với họ. Bài báo của tôi lan truyền nhanh chóng.

 

Mặc dù hầu hết các bài báo của tôi chỉ trích dẫn hiến pháp và quy tắc ứng xử của đảng, nhưng Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật tại Trường Đảng Trung ương đã buộc tội tôi phạm những sai lầm nghiêm trọng. Tôi phải đối mặt với một loạt cuộc thẩm vấn đầy khó khăn, trong đó người thẩm vấn gây áp lực tâm lý và gài bẫy bằng câu chữ để khiến tôi phải thú nhận cái gọi là hành vi sai trái của mình. Nó rất khó chịu, nhưng tôi nhận ra đó là một cuộc đấu tâm lý. Nếu tôi không sợ họ, họ sẽ thua một nửa trận chiến.

 

Thế là mọi thứ đi vào bế tắc: Tôi liên tục đăng bài và chính quyền liên tục gọi tôi đến để thẩm vấn. Ngay sau đó, tôi kết luận cơ quan an ninh đang nghe lén điện thoại của tôi, đọc các liên lạc kỹ thuật số của tôi, theo dõi tôi đi đâu và gặp ai. Các giáo sư về hưu ở Trường Đảng Trung ương thường chỉ cần được nhà trường cho phép khi đi du lịch Hồng Kông hoặc nước ngoài, nhưng bây giờ nhà trường gợi ý tôi phải được Bộ An ninh quốc gia phê chuẩn mới được đi nước ngoài.

 

Vào tháng 4 năm 2016, một sự kiện đã xảy ra: Bài phát biểu của tôi tại Đại học Thanh Hoa vài tháng trước, trong đó tôi lập luận nếu “chủ nghĩa” đi ngược lại với lẽ thường, nó sẽ biến thành những lời dối trá, được công bố trên một trang web có ảnh hưởng ở Hồng Kông. Thời điểm rất tồi tệ, bởi vì Tập Cận Bình vừa tuyên bố một số cuộc thảo luận tự do trong Trường Đảng Trung ương đã đi quá xa và ông ta thúc giục giám sát chặt chẽ hơn nữa các giáo sư.

 

Kết quả là vào đầu tháng 5, tôi lại bị Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật của nhà trường thẩm vấn và buộc tội tôi chống đối Tập Cận Bình. Kể từ đó, ĐCSTQ đã cấm đăng các bài báo của tôi trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc, bao gồm cả báo in, báo mạng và truyền hình và ngay cả tên của tôi cũng bị cấm xuất hiện. Một đêm tháng Bảy, tôi lại được triệu tập đến họp tại Trường Đảng Trung ương, một thành viên Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật đặt một chồng tài liệu cao khoảng 30 cm lên bàn trước mặt tôi.

 

Anh ta nói: “Chị có quá nhiều tài liệu rồi. Hãy tự cân đo đong đếm đi!”. Rõ ràng là họ cảnh cáo tôi phải im lặng, nếu tôi phát ngôn trên mạng nữa, tôi sẽ phải chịu kỷ luật, kể cả giảm trợ cấp hưu trí. Tôi cảm thấy bị xúc phạm vì bị đối xử theo cách này, mặc dù tôi biết những người khác đang bị đối xử nghiêm khắc hơn.

 

Trong những năm là đảng viên ĐCSTQ, tôi chưa bao giờ vi phạm pháp luật hay kỷ luật và chưa bao giờ bị khiển trách, nhưng bây giờ tôi thường bị các quan chức của đảng thẩm vấn. Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật của Trường Đảng Trung ương nhiều lần đe dọa về viễn cảnh ô nhục là tổ chức một cuộc họp công khai lớn và chính thức công bố hình phạt. Vào cuối mỗi cuộc thẩm vấn, họ yêu cầu tôi phải giữ bí mật. Mọi thứ được thực hiện bởi thế giới ngầm và không nhìn thấy được.

 

Sau đó, vụ bưng bít về sự tàn bạo của cảnh sát đã gây ra sự đổ vỡ cuối cùng với Tập Cận Bình và ĐCSTQ. Đầu tháng 5 năm 2016, nhà khoa học môi trường Lôi Dương đã chết khi bị cảnh sát Bắc Kinh giam giữ không rõ lý do trên đường đến sân bay để gặp mẹ vợ. Để trốn tránh tội lỗi, cảnh sát buộc tội Lôi gạ gẫm gái mại dâm.

 

Những người bạn cùng lớp của anh từ những ngày còn học đại học tức giận trước sự vu khống này và đã tập hợp giúp đỡ gia đình Lôi đòi lại công lý. Vụ việc gây ra tác động lớn trên khắp đất nước. Để xoa dịu cơn giận dữ, giới lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ đã ra lệnh điều tra. Bên kiểm sát đồng ý tiến hành khám nghiệm tử thi độc lập và có kế hoạch tiến hành một phiên tòa xét xử.

 

Tuy nhiên, một chuyện kỳ lạ đã xảy ra: chính quyền địa phương nơi Lôi Dương ở đã ra lệnh quản thúc tại gia cha mẹ, vợ con của Lôi Dương, đồng thời đề nghị cung cấp cho họ một khoản tiền bồi thường khổng lồ khoảng 1 triệu đô la Mỹ để yêu cầu họ từ bỏ việc theo đuổi sự thật. Khi gia đình Lôi từ chối, số tiền bồi thường được tăng lên 3 triệu đô la Mỹ. Ngay cả khi một căn nhà trị giá 3 triệu đô la Mỹ được thêm vào, vợ của Lôi vẫn nhất quyết đòi lại sự trong sạch cho người chồng quá cố.

 

Chính quyền sau đó đã gây áp lực với cha mẹ của Lôi, họ đã quỳ xuống trước mặt con dâu và cầu xin cô từ bỏ vụ việc. Tháng 12 năm đó, kiểm sát viên thông báo họ sẽ không truy tố bất kỳ ai về cái chết của Lôi Dương và luật sư của gia đình Lôi Dương tiết lộ anh ta bị ép buộc phải ngừng can thiệp.

 

Khi biết được kết cục, tôi đã ngồi vào bàn làm việc cả đêm, trong lòng vừa bi thương vừa phẫn nộ. Rõ ràng cái chết của Lôi là do hành vi sai trái của cảnh sát, nhưng cấp trên của họ thay vì trừng phạt những cảnh sát gây ra vụ việc lại sử dụng số tiền thuế khổng lồ mà người dân khó khăn mới kiếm được để tìm kiếm sự hòa giải bên ngoài tòa án. Cán bộ không phục vụ nhân dân mà bao che lẫn nhau. Vì vậy, tôi tự vấn: Nếu các quan chức ĐCSTQ có khả năng thực hiện những hành động đáng khinh bỉ như vậy, liệu bạn có còn tin được đảng này không? Quan trọng nhất là tôi có thể tiếp tục gắn bó với chế độ này không?

 

Sau 20 năm do dự, bối rối và thống khổ, tôi quyết định bước ra khỏi bóng tối và hoàn toàn đoạn tuyệt với ĐCSTQ. Bước đại nhảy lùi của Tập Cận Bình đã sớm khiến tôi không còn lựa chọn nào khác. Tập Cận Bình đã bãi bỏ chế độ nhiệm kỳ chủ tịch vào năm 2018, làm dấy lên viễn cảnh tôi sẽ phải sống dưới sự cai trị vô thời hạn của chế độ tân Stalin. Mùa hè năm sau, tôi đã có thể đến Hoa Kỳ bằng thị thực du lịch. Ở đó, tôi nhận được tin nhắn từ một người bạn nói với tôi: Chính quyền Trung Quốc buộc tội tôi tham gia vào các hoạt động “chống Trung Quốc”, nếu trở về Bắc Kinh, tôi sẽ bị bắt.

 

Tôi quyết định kéo dài chuyến thăm của mình cho đến khi mọi thứ lắng xuống. Sau đó, đại dịch Covid 19 bùng phát và chuyến bay đến Trung Quốc bị hủy bỏ nên tôi phải tiếp tục chờ đợi. Đồng thời, tôi rất phản cảm với việc xử lý dịch không đúng cách của Tập Cận Bình, tôi đã ký một bản kiến nghị ủng hộ bác sĩ nhãn khoa ở Vũ Hán Lý Văn Lượng. Anh ta bị cảnh sát quấy rối vì đã cảnh báo bạn bè về bệnh dịch mới và cuối cùng qua đời vì căn bệnh này. Tôi nhận được một cuộc gọi khẩn cấp từ bộ phận liên quan của Trường Đảng Trung ương yêu cầu tôi về nước.

 

Nhưng bầu không khí ở Trung Quốc càng ngày càng u ám. Nhậm Chí Cường, một ông trùm bất động sản bất đồng chính kiến, mất tích vào tháng 3 và sớm bị khai trừ đảng rồi bị kết án 18 năm tù. Đồng thời, mối quan hệ của tôi với nhà chức trách ngày càng xấu đi, vì một đoạn băng ghi âm cuộc trò chuyện riêng tư giữa tôi và một nhóm nhỏ bạn bè bị rò rỉ và công bố trên Internet mà không có sự đồng ý của tôi. Trong bài phát biểu, tôi gọi ĐCSTQ là “thây ma chính trị” và nói Tập Cận Bình nên từ chức. Một bài viết ngắn mà tôi gửi cho bạn bè, trong đó lên án việc Tập Cận Bình thực thi luật an ninh quốc gia mới mang tính đàn áp ở Hồng Kông, cũng bị rò rỉ ra ngoài.

 

Tôi biết tôi đã gặp rắc rối. Ngay sau đó tôi bị khai trừ đảng, nhà trường hủy bỏ trợ cấp hưu trí của tôi và tài khoản ngân hàng của tôi bị đóng băng. Tôi đã yêu cầu các cơ quan chức năng của Trường Đảng Trung ương đảm bảo an toàn cá nhân cho tôi sau khi trở về Trung Quốc, nhưng các quan chức tránh trả lời câu hỏi này qua điện thoại, thay vào đó họ đưa ra những lời đe dọa mơ hồ đối với con gái tôi và đứa con trai nhỏ của con bé ở Trung Quốc. Chính ở thời điểm này, tôi buộc phải chấp nhận sự thật phũ phàng: Tôi không còn đường lui.

 

--------------------------------------

 

NGUỒN :

 

The Party That Failed   

An Insider Breaks With Beijing

By Cai Xia

January/February 2021

Foreign Affairs   

 

 

 

 

 

 


No comments:

Post a Comment

View My Stats