Chuyển
quyền tại Mỹ: Một giai đoạn đầy nguy hiểm
Lê Mạnh
Hùng
Dec 22, 2020
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/chuyen-quyen-tai-my-mot-giai-doan-day-nguy-hiem/
Cuộc bầu cử tổng thống 2020 và việc ông Donald
Trump không chịu nhận thua mà còn tìm mọi cách để đảo ngược kết quả bầu cử cho
người ta lưu ý đến một nhược điểm quan trọng trong thể chế chính trị Mỹ, đó là
việc chuyển quyền giữa hai vị tổng thống tân và cựu và những nguy hiểm tiềm
tàng có thể xảy ra.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2020/12/A1-Chuyen-quyen-tai-My-1536x1024.jpg
Dù là một người
thân tín với Tổng Thống Donald Trump, nhưng đến những ngày cuối cùng, Bộ Trưởng
Tư Pháp William Barr vẫn phải dứt áo ra đi. (Hình: AP Photo/Evan Vucci, File)
Giai đoạn chuyển quyền giữa
hai vị tổng thống tại Mỹ là một trong những giai đoạn ít được các nhà chính trị
học nghiên cứu nhất trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ. Thế nhưng ngay từ khi Mỹ
trở thành cường quốc bá quyền trên thế giới, giai đoạn giữa hai vị tổng thống
này chính là giai đoạn mà các quốc gia khác trên thế giới trông vào với vừa e
ngại vừa hy vọng.
Khi Hoa Kỳ trở thành quốc
gia dân chủ đầu tiên trong thế kỷ thứ 18, Hoa Kỳ cũng là nước đầu tiên đưa vào
chính trị thế giới khái niệm chuyển nhượng quyền lực từ một vị nguyên thủ còn sống
sang một vị nguyên thủ khác. Đồng thời, Hoa Kỳ cũng đưa ra khái niệm một thời
gian chuyển tiếp chính trị – giai đoạn giữa lúc một lãnh tụ mới được bầu lên và
lúc ông ta chính thức nắm quyền. Trước đó, các chế độ quân chủ có hình thức nhiếp
chính (regency) thông thường khi vị quân vương còn trẻ thơ và quyền lực được một
vị thân thích hoặc một vị quan nào đó trong triều nhân danh nhà vua tạm nắm (chế
độ thủ tướng tại Anh phát xuất từ quan niệm này).
Thế nhưng nước Cộng Hòa Mỹ
non trẻ từ bỏ quan điểm nhiếp chính. Một vị tổng thống hết nhiệm kỳ, dù bị dân
chúng đuổi việc hay không còn được phép tái cử, không cai trị nhân danh vị tổng
thống mới mà vẫn còn giữ đủ toàn bộ quyền hành cho đến khi ông (bà) tổng thống
mới tuyên thê nhậm chức. Và chính điều này tạo ra một giai đoạn tranh tối tranh
sáng giữa hai triều đại tổng thống, tạo ra nhiều vấn đề cho ông tổng thống mới
cũng như cho nước Mỹ và thế giới.
Vấn đề này bắt đầu ngay từ
khi Mỹ mới lập quốc. Khi John Adams thay thế George Washington vào năm 1797,
giai đoạn này kéo dài bốn tháng kể từ khi Adams được Cử Tri Đoàn bầu lên vào
Tháng Mười Hai cho đến khi ông tuyên thệ nhậm chức vào Tháng Ba năm sau. Phải đến
thời Đại Khủng Hoảng của những năm 1930, nước Mỹ mới cắt đi sáu tuần lễ của thời
gian chuyển tiếp. Bốn tháng cai trị của một ông tổng thống “vịt què” thì quá
dài đối với một quốc gia trong cơn khủng hoảng trầm trọng. Tu Chính Án Thứ 20 của
Hiến Pháp Mỹ dời ngày tuyên thệ của tổng thống đến ngày 20 Tháng Giêng.
Sau Thế Chiến Thứ 2, Mỹ
trở thành cường quốc bá quyền trên thế giới với một mạng lưới các liên minh,
nhiều hoạt động quân sự hoặc công khai hoặc ngấm ngầm trên khắp thế giới, thì
ngay cả một thời gian chuyển tiếp 11 tuần cũng nhiều khi có vẻ quá dài, cung cấp
cơ hội cho những tai nạn bất ngờ hoặc là những hiểu lầm nguy hiểm. Tuy rằng người
Mỹ trong giai đoạn đầu của Chiến Tranh Lạnh đã có thể sửa đổi Hiến Pháp để giới
hạn triều đại của một tổng thống xuống chỉ hai nhiệm kỳ, nhưng họ cũng chưa thấy
sự cần thiết phải rút ngắn lại hơn nữa thời gian chuyển tiếp giữa hai tổng thống.
Lý do có lẽ là vì sự gia tăng nhanh chóng trong tầm mức của chính phủ liên bang
khiến một chính quyền mới phải chuẩn bị bổ nhiệm một số viên chức mới càng ngày
càng đông.
Nhưng chính vì vậy, trong
thời đại của các siêu cường này, các giai đoạn chuyển tiếp thường tạo ra những
vấn đề. Tuy rằng trước Donald Trump không có một ông tổng thống nào phủ nhận sự
chính đáng của người thay thế mình, nhưng cũng có ba nguyên nhân chính mà không
ít thì nhiều đóng góp vào việc làm cho thời gian chuyển tiếp này tạo ra nhiều vấn
đề cho nước Mỹ và thế giới.
Thứ nhất, các vị tổng thống
trong những ngày tháng cuối của nhiệm kỳ mình thông thường vẫn quan tâm đến di sản
mình để lại trong lịch sử. Và phản ứng này, phần nhiều có dính dáng đến các vấn
đề ngoại vụ đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho vị tổng thống sau.
Thứ hai, nếu có những
khác biệt quan trọng giữa quan điểm về cai trị giữa hai vị tổng thống mới và
cũ, nhiều vấn đề quan trọng có thể bị bỏ quên sau thời gian chuyển tiếp.
Và thứ ba, tuy rằng rất
hiếm, một vị tổng thống mới đắc cử có thể tích cực gây khó khăn cho tổng thống
đương nhiệm.
Việc chuyển tiếp giữa Tổng
Thống Dwight D. Eisenhower và tổng thống mới đắc cử John F. Kennedy là một thí
dụ điển hình của việc gây dựng di sản vào phút chót với những hậu quả tai hại.
Trong 19 tháng cuối cùng
cầm quyền, Tổng Thống Eisenhower đã cho phép CIA tiến hành một loạt các chương
trình thay đổi chế độ tại các nước nay là Cộng Hòa Dân Chủ Congo, Công Hòa
Dominican và quan trọng nhất là chống chế độ Fidel Castro tại Cuba. Không một
chương trình nào được hoàn tất vào lúc ông Kennedy tuyên thệ nhậm chức.
Và quả thật tuy rằng phó
tổng thống của ông Eisenhower bị thua trong cuộc bầu cử chống lại ông Kennedy,
không một chương trình nào trong đó được ngưng lại hoặc là giảm tầm mức để đợi
chính quyền mới lên quyết định có tiếp tục hay không.
Ngược lại chính quyền
Eisenhower gia tăng tốc độ hy vọng rằng có thể hoàn tất trước khi ông
Eisenhower rời nhiệm sở. Hậu quả là ông Kennedy thừa hưởng một nhóm những người
Cuba lưu vong ngày càng đông mà không còn được hoan nghênh nữa tại Guatemala,
nơi mà cơ quan CIA huấn luyện họ để lật đổ chế độ Fidel Castro, một điều mà đã
đóng góp không nhỏ đến thảm bại tại Vịnh Con Heo.
Trường hợp thứ hai có thể
thấy trong việc chuyển tiếp từ Bill Clinton sang George W. Bush. Tuy rằng việc
chuyển tiếp này không có những vấn đề như năm 2020 nhưng cũng có một số chương
trình và chính sách mà chính quyền cũ để lại nhưng không được chính quyền mới
coi là quan trọng. Ông Bill Clinton tìm cách báo động cho ông Bush về nguy cơ tổ
chức Al Qaeda của Osama Bin Laden tạo ra. Mặc dầu vậy, chính quyền Bush phải mất
chín tháng mới tập trung vào vấn đề của Al Qaeda và quyết định có nên thực hiện
chương trình sản xuất loại “drone” vũ trang có khả năng tấn công – một quyết định
mà dần dà dẫn đến việc sản xuất chiếc “drone” Predator.
Tuy rằng Ủy Ban 9/11 quyết
định rằng, chính quyền Bush không bỏ lỡ cơ hội nào để ngăn chặn cuộc tấn công
9/11 nhưng sự ngừng lại trong việc tập trung theo dõi hoạt động của Al-Qaeda
trong chín tháng trời chắc cũng có đóng góp phần nào trong việc tạo ra sự tấn
công 9/11 kia. Và nó chắc chắn cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của cuộc chiến chống
khủng bố của ông Bush sau 9/11.
Trường hợp thứ ba có thể
thấy sau cuộc bầu cử 1968 trong đó ứng cử viên Richard Nixon tích cực thức đẩy
Tổng Thống Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu để rồi sau đó chấp nhận những điều kiện
còn tệ hơn là những gì chính quyền Lyndon B. Johnson có thể đạt được.
Một thí dụ nữa là sự chuyển
tiếp từ chính quyền Obama sang chính quyền Trump. Trump không đợi đến cả lúc bầu
cử để phá hoại chính sách của chính quyền Obama trừng phạt Nga vì can thiệp vào
cuộc bầu cử 2016. Michael Flynn, người được Trump cử làm cố vấn an ninh quốc
gia, đã ra dấu hiệu cho người Nga rằng chính quyền mới sẽ có cái nhìn tốt hơn đối
với Moscow.
Trong cuộc chuyển tiếp lần
này, tuy rằng có những cố gắng của chính quyền Trump để lật ngược lại kết quả bầu
cử, nhưng may mắn ta không thấy những hoạt động tìm cách phá hoại chính quyền mới
của Trump.
Trái với những gì người
ta e ngại, ông Trump không dùng những ngày cuối cùng của chính quyền mình để
phá hoại NATO hoặc gây rối tại các nơi khác. Ngay cả một hành động chống lại
Tehran có vẻ cũng không được Trump cho thực hiện bất kể những thúc đẩy của Ngoại
Trưởng Mike Pompeo và quan hệ mật thiết của gia đình Trump với các chính quyền
Israel, Saudi Arabia và UAE.
Mặc dầu vậy việc chuyển
tiếp từ chính quyền Trump sang chính quyền Biden cũng sẽ là một chuyện đầy khó
khăn nhất là với sự bất hợp tác của các nhân viên chính quyền Trump với những
người sẽ thay thế họ. Và điều này dẫn đến một vấn đề cấp bách quan trọng cho
chính quyền mới của ông Biden: vấn đề phi Trump hóa chính quyền trung ương.
Trên phương diện này
chính quyền Nixon có thể nói là cái gần nhất so với chính quyền Trump hiện nay.
Sau khi Nixon đi xuống, các chính quyền Ford và Carter hợp tác với Quốc Hội để
loại bỏ nhiều nguồn gốc định chế cho việc vi phạm luật của thời đại Nixon.
Tuy nhiên với chính quyền
Biden công việc có thể khó khăn hơn. Những người thừa kế ông Nixon có thể dựa
vào các quan chức của chính quyền Nixon mà vẫn còn trung thành với Hiến Pháp
hơn là ông tổng thống của họ. Những người này sau trở thành nòng cốt của chính
quyền Ford. Hiện nay chúng ta chưa có thể quyết định được rằng trong số những
viên chức cao cấp mà ông Trump bỏ nhiệm bên ngoài các chức vụ chính trị, có bao
nhiêu người như vậy.
Ngay cả trong trường hợp
bình thường, việc chuyển giao quyền lực tại Mỹ cũng đã là một điều làm cho thế
giới quan ngại. Thời gian chuyển tiếp lâu dài, công với việc thay thế một loạt
các viên chức ở cấp bậc cao nhất vốn vẫn là những nguồn gây khó khăn cho cả
chính sách đối ngoại lẫn đối nội.
Vì thù hận, tham lam, ông
Trump đã tìm cách phá hoại hầu hết mọi khía cạnh của truyền thống chính trị Hoa
Kỳ. Điều độc nhất mà người ta có thể an ủi là những hành động của tổng thống thất
bại Donald Trump sẽ kích thích người Mỹ tìm cách sửa chữa những khuyết điểm
trong hệ thống chính trị của mình, trong đó có cả việc rút ngắn giai đoạn chuyển
tiếp quyền lực này. [qd]
No comments:
Post a Comment