Thiện Ý
10/10/2018
Trong chuyến đi Bình Nhưỡng, thủ đô Bắc Hàn của Tổng
thống Nam Hàn Moon Jae In, họp Thượng đỉnh với Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong Un lần
thứ ba vào tháng 9 vừa qua, để bàn về tiến trình hiệp thương đi đến thống nhất
đất nước, người ta chú ý đến những hình ảnh đón tiếp cực kỳ long trọng và các
màn biểu diễn các hoạt cảnh sống động đầy ấn tượng mang tính biểu tượng cho
khát vọng hòa bình, hòa giải dân tộc và thống nhất đất nước của nhân dân hai miền
Bắc-Nam Triều Tiên. Người viết khi ngồi xem một cuốn phim của YonhapNews trên
youtub ghi nhận những hình ảnh này, nhất là hình ảnh hai nhà lãnh đạo Bắc-Nam
Hàn thân thiết đi bên nhau, tươi cười vẫy tay trước sự cuồng nhiệt đón chào của
đám đông hàng trăm ngàn người dân Bắc Triều Tiên, nước mắt tự nhiên ứa ra và
lòng cảm thấy đau xót khi nhìn người lại nghĩ đến ta để tự hỏi “Vì đâu Việt
Nam ra nông nỗi này?”.
Những nông nỗi gì và làm sao hóa giải những nông nỗi
từ quá khứ đến hiện tại, để Việt Nam có được một tương lai tươi sáng tốt đẹp
cho dân cho nước, như những nỗ lực của nhà cầm quyền Bắc và Nam Hàn đã và đang
cùng hướng tới để đáp ứng khát vọng của nhân dân hai miền Triều Tiên?
I.- NHỮNG
NÔNG NỖI GÌ?
Đó là những nông nỗi từ quá khứ đến hiện tại.
1.-
Nông nỗi từ quá khứ: Việt Nam đã không bị chiến tranh tàn phá đất
nước, giết hại hàng triệu người dân Việt tộc trên cả hai miền đất nước, để lại
những hậu quả nghiêm trọng, toàn diện và di hại lâu dài cho đất nước, dân tộc
và các thế hệ mai sau…
-
Nếu như đảng Cộng sản Việt Nam đã không tri tình, nhiệt tình, phát động cuộc
chiến tranh “Nồi da sáo thịt” kéo dài
nhiều năm để cướp chính quyền chính thống quốc gia ở Miền Nam, cộng sản hóa cả
nước, để hoàn thành “nghĩa vụ quốc tế cộng sản” cho hai tân đế quốc
đỏ Nga-Tàu.
-
Nếu như đảng Cộng sản Việt Nam theo gương đảng Lao Động Bắc Hàn, sau khi phát động
chiến tranh, biết sớm giác ngộ ngừng lại cuộc chiến làm “nghĩa vụ quốc tế cộng
sản cho Nga-Tàu” (như Bắc Hàn chỉ sau cuộc
chiến 3 năm: 1950-1953) để tập trung nội lực (nhận lực, tài lực trong nước) và
ngoại lực (thu hút viện trợ của Liên Xô, Trung quốc và các
nước XHCN…) xây dựng thử nghiệm mô hình “chế độ xã hội chủ
nghĩa” ( Như Bắc Hàn đã làm…) để chờ cơ may thống
nhất đất nước một cách hòa bình (như Bắc Hàn và Nam Hàn đã và đang
làm…).
Thực
tế, quả là đảng CSVN đã đánh mất cơ hội ngừng cuộc chiến sớm hơn, tuy có trễ,
nhưng chưa muộn, để cùng chính quyền chính thống quốc gia ở Miền
Nam thực hiện giải pháp thống nhất đất nước một cách hòa bình qua ba giải đoạn,như
chúng tôi đã trình bày trong bài viết trước trên diễn đàn này.
Đó
là cơ may sau khi ký kết Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa
bình cho Việt Nam ngày 27-1-1973. Từ đó và sau đó,
đảng CSVN chỉ cần thực thi nghiêm túc bản Hiệp định này, thì giờ đây Việt Nam
sau 45 năm (1973-2018). có thể đã có hay sẽ có cơ may thuận lợi thống nhất
đất nước một cách hòa bình. Tương tự như Bắc và Nam Hàn, sau 65 ngừng cuộc chiến
(1953-2018) cơ may thuận lợi đã đến đó là, Nam Hàn dân chủ đã phát triển
kinh tế giầu mạnh, Bắc Hàn độc tài toàn trị cộng sản tuy còn nghèo yếu kinh tế,
nhưng mạnh quân sự khi đã có vũ khí hạt nhân trong tay, để có thể chủ động cùng
Nam Hàn thực hiện tiến trình hòa giải dân tộc đi đến thống nhất đất nước một
cách hòa bình.Nhất là cơ may đã được các cường quốc có ảnh hưởng tán đồng cho
các nỗ lực hòa giải dân tộc, tiến tới thống nhất Triều Tiên bằng con đường hòa
bình.
Nhớ
lại, sau khi Hội nghị Paris khởi sự ít lâu, người viết lúc đó còn là sinh viên,
đã gửi Thư ngỏ đến “Các nhà lãnh đạo hai miền Bắc-Nam”, đăng trên Nội san Sinh viên Tiến bộ Luật khoa. Trong thư chúng tôi
đã tha thiết kêu gọi các nhà lãnh đạo hai Miền Bắc-Nam “Nhân cơ may
lịch sử này, cùng nhau tìm ra một giải pháp phù hợp với thực trạng Đất nước và
nương theo ý đồ quốc tế có lợi nhất cho dân tộc Việt Nam, để chấm dứt sự đổ máu
vô ích cho thế hệ thanh niên chúng tôi trên cả hai Miền Bắc-Nam…”
Trong thư chúng tôi đã dùng biểu tượng hai con tầu Bắc
– Nam cùng đi về một bến; trong một giả định rằng tất cả quý vị lãnh đạo hai miền
đang lèo lái hai con tầu ấy đều có chung lòng yêu nước, đều có thiện
chí muốn làm những điều tốt đẹp cho đất nước, để đưa dân tộc đến bến vinh
quang. Lập luận rằng: Nhưng vì hai con tầu mang hai nhãn hiệu đối nghịch
URSS (Bắc) và USA (Nam), đi theo chiều ngược nhau, tạo phản lực, gây thương
tích hoặc tử vong cho những hành khách bất đắc dĩ trên hai con tầu ấy là chúng
tôi (thanh niên) và nhân dân hai miền nói chung. Lúc ấy, chúng
tôi đã mạo muội đề nghị, nếu quý vị không thể cùng nhau tìm ra được con đường
chung tốt hơn cho dân tộc, thì xin tạm thời đường ai nấy đi, để chờ cơ may thống
nhât Đất nước một cách hòa bình. Trong khi chờ đợi cơ may ấy, quý vị cố
gắng khai thác triệt để mâu thuẫn quốc tế (Chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng
sản và Tư bản) để làm lợi cho dân tộc (nhận viện trợ phát triển
thay vì vũ khí giết người…). Đồng thời, vận dụng mọi thuận lợi hai
bên cùng thể nghiệm hai mô hình chế độ chính trị (Xã Hội Chủ Nghĩa
chuyên chính và Cộng hòa dân chủ pháp tri) để trong tương lai khi
có điều kiện thuận lợi, nhân dân hai miền sẽ lựa chọn bằng phương thức dân chủ
(lá phiếu trong một cuộc tổng tuyển cử tự do.. ) mô hình chế
độ chính trị nào thích dụng, có lợi cho đất nước (Như Bắc và Nam
Hàn đã và đang đi theo chiều hướng này)
Tiếc rằng lời kêu gọi và những đề nghị chân thành thể
hiện ước muốn chung của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam thời bấy giờ (cũng
như bây giờ) đã không được các nhà lãnh đạo hai miền Bắc-Nam mảy may quan
tâm; chỉ là tiếng kêu lạc lõng trong sa mạc, bị nhận chìm trong tiếng bom gào đạn
thét. Vì giải pháp khác đã được ngoại bang sắp xếp và áp đặt. Vì sự vâng phục,
lòng háo thắng, đam mê quyền lực và quyền lợi cá nhân và tập đoàn thống trị đã
che lấp sự khôn ngoan, hủy diệt lòng yêu nước của quý vị. Vì quý vị đã đặt quyền
lợi cá nhân và tập đoàn thống trị trên quyền lợi dân tộc, đất nước và nhân dân…
2.-
Nông nỗi đến hiện tại.
Mặc dù đảng CSVN đã dùng bạo lực chiến tranh sau hơn
20 năm (1954-1975) để thống nhất được đất nước hơn 43 năm qua, với cái giá của
hàng triệu sinh linh trên cả hai miền Nam - Bắc; nhưng dân tộc Việt Nam vẫn bị
phân hóa do cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng vẫn chưa chấm dứt. Bởi vì mục
tiêu tối hậu của ý thức hệ cộng sản và ý thức hệ quốc gia vẫn chưa bên nào đạt
được.
Mục
tiêu tối hậu ý thức hệ cộng sản, thì những người cộng
sản Việt Nam đã có cơ hội và thời gian dài trên 43 năm thực hiện mô hình chế độ
xã hội chủ nghĩa trên cả nước vẫn chưa đạt được. Mặc dầu thực tế công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã thất bại hoàn toàn tại Việt Nam cũng như hầu hết các
nước thử nghiệm chủ nghĩa này; kể cả Liên Xô, nước đầu tiên vận dụng chủ nghĩa
cộng sản vào thực tiễn, từng được cộng sản Việt Nam xưng tụng là “Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa”. Mặc dầu thực tế đảng CSVN đã từ bỏ con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội khởi sự từ hơn hai thập niên qua (1995-2018). Thế
nhưng bề ngoài đảng CSVN vẫn ngoan cố dùng bảng hiệu “đảng CSVN” (ngụy
cộng sản) và bảng hiệu chế độ “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (ngụy
cộng hòa, ngụy dân chủ) để có trong tay “Công cụ chuyên chính vô sản” (ngụy
vô sản) là công an, quân đội,luật pháp, tòa án, nhà tù, pháp trường… để trấn
áp và bác đoạt các quyền tự do dân chủ, nhân sinh, dân quyền cơ bản của nhân
dân; để duy trì một chế độ độc tài toàn trị sắt máu, bảo vệ độc quyền thống trị
cho một đảng độc tôn; cũng là bảo vệ các ưu quyền, đặc lợi cho một giai cấp thống
trị là các đảng viên cộng sản có chức, có quyền, lắm bạc, nhiều tiền cấu kết với
nhau.(như đã thể hiện qua cuộc sống của họ trên thực tế không cần nói ra, ai
cũng thấy và phẫn nộ…)
Chính
từ thực tế trên mà cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộngg tiếp tục diễn ra (giai đoạn chót của cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng)., dù cuộc
chiến tranh Quốc-Cộng đã kết thúc hơn 43 năm rồi. Bởi vì mục tiếu tối
hậu của người Việt quốc gia về chính trị là thiết lập một chế độ dân chủ pháp
trị và phát triển kinh thế theo con đường kinh tế thị trường, trong một xã hội
nhân bản, khai phóng, có nhiều giai cấp sống chung, cộng đồng đồng tiến, tôn trọng
quyền tư hữu, các quyền tự do kinh tế, dân chủ, dân sinh, nhân quyền được tôn
trọng, bảo vệ và hành xử…Nhưng mục tiêu tối hậu này người Việt quốc gia vẫn
chưa đạt được. Và vì vậy họ tiếp tục công cuộc chống cộng sản độc tài, phản dân
chủ cho đến khi thành đạt mục tiếu tối hậu này. Cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng
tại Việt Nam sẽ chấm dứt ngay khi mục tiếu tối hậu này của phía Việt Quốc thành
đạt cách này hay cách khác.Vậy thì…
II/-
LÀM SAO HOÁ GIẢI ĐƯỢC NHỮNG NÔNG NỖI TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN TẠI?
Muốn
hóa giải những nông nỗi từ quá khứ đến hiện tại, câu trả lời tổng quát là Việt
Nam cách nào đó phải được dân chủ hóa. Vì chỉ có dân chủ
hóa mới chấm dứt được phân hóa dân tộc, thống nhất được toàn lực quốc gia để
xây dựng phát triển toàn diện đất nước đến phú cường và văn minh tiến bộ ngang
tầm cao thời đại; tạo thế và lực bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ trước họa xâm lăng bất cứ từ đâu tới (trước mắt là hiểm họa xâm
lăng từ nước lớn láng diềng Phương Bắc)
Như
chúng tôi đã có dịp trình bày trong nhiều bài viết từ nhiều năm qua cho đến lúc
này, vẫn là Việt Nam cần được dân chủ hóa để giải quyết mâu thuẫn đối
kháng (một mất một còn) giữa nhà cầm quyền độc tài
đảng trị với mọi tầng lớp nhân dân mà quyền làm chủ bị tước đoạt. Từ đó và nhờ đó
chấm dứt được cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng kéo dài nhiều thập niên qua
làm phân hóa dân tộc.
Bởi
vì, ý nguyện của nhân dân và mục tiêu chống cộng của người Việt quốc gia bao
lâu nay vẫn là một: dân chủ hóa đất nước. Vì chỉ
có dân chủ hóa đất nước thì quyền làm chủ của nhân dân mới được thu hồi trọn vẹn.
Từ đó và nhờ đó các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền của mọi tầng lớp nhân
dân (chứ không riêng giai cấp thống trị) mới được tôn trọng, bảo vệ và
hành xử. Từ đó và nhờ đó mọi tầng lớp nhân dân mới được sống trong “Độc
lập-Tự do-Hạnh phúc” thực sự; chứ không phải chỉ là bánh vẽ như đảng
CSVN trưng ra làm khẩu hiệu tuyên truyền lừa mị nhân dân trước và sau khi “cướp
được chính quyền” trên cả nước.
Vậy Việt Nam phải dân chủ hóa như thế nào? - Như chúng
tôi đã đề nghị nhiều lần, có hai cách dân chủ hóa đất nước:
1.-
Đảng Cộng sản Việt Nam đang nắm quyền độc tôn trong chế độ độc tài toàn trị cộng
sản “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” tự nguyện, tự giác, chủ động thực hiện
một tiến trình dân chủ hóa đất nước.
Đây là cách dân chủ hóa đất nước một cách hòa bình
có lợi nhất cho dân cho nước, nếu đảng CSVN tỏ ra khôn ngoan hơn, biết dừng lại
đúng lúc. Trong sự chuyển đổi êm dịu này, đảng CSVN vẫn có thể bảo vệ được quyền
và lợi cho một tập đoàn thống trị trong quá trình chuyển đổi và sau khi chuyển
đổi chế độ từ độc tài toàn trị độc đảng qua dân chủ pháp trị đa đảng; đảng CSVN
vẫn có chỗ đứng và tiếng nói trên chính trường (tương tự như ở Nga và các nước
cựu cộng sản Ðông Âu). Nghĩa là, ở cuối quá trình chuyển đổi, nếu đảng CSVN
chủ động kết thúc quá trình bằng sự tự giác từ bỏ độc quyền thống trị, một mình
đi bước trước hay cùng với các lực lượng chính trị quốc gia, dân tộc, dân chủ
thiết lập một thể chế chính trị dân chủ pháp trị trên nền tảng “nhất
nguyên dân tộc” (khác nhất nguyên xã hội chủ nghĩa phi
dân tộc) và đa đảng.
Trên thực tế, hành động cụ thể khả tín là đảng CSVN
chủ động tự mình tuyên bố tu chỉnh hay hủy bỏ toàn bộ bản hiến pháp hiện hành,
làm bản hiến pháp mới hay sửa đổi biến cải bản hiến pháp hiện hành thành bản hiến
pháp dân chủ đa đảng; song song với việc trả tự do vô điều kiện cho các tù nhân
chính trị và chấm dứt mọi hành vi bắt bớ giam cầm những người bất đồng chính kiến
hay vì lý do tôn giáo. Ðồng thời, điều chỉnh các văn kiện lập pháp và lập quy
cho phù hợp với thể chế dân chủ đa đảng, song song với việc thực thi, tôn trọng,
bảo vệ các quyền tự do dân chủ, dân sinh và nhân quyền cơ bản.
Tất
cả nhằm hình thành khung cảnh dân chủ đa nguyên, tiền đề chế độ dân chủ pháp trị
và tạo niềm tin cho các lực lượng chính trị quốc gia, dân tộc dân chủ(về sự thực tâm của người CS) để bước vào sân
khấu chính trị tranh cử với đảng cộng sản (nếu còn giữ nguyên tên đảng)
hay đảng của những cựu đảng viên cộng sản (nếu biến thể thay tên khác).
Trong điều kiện này, các chính đảng thuộc mọi khuynh hướng có thể nắm quyền bằng
phương thức dân cử thông qua các cuộc ứng cử, tranh cử và bầu cử tự do. Nếu đảng
cộng sản vẫn là một chính đảng mạnh, được nhân dân tín nhiệm, họ vẫn có thể tiếp
tục nắm quyền. Tất nhiên, dù đảng cộng sản nắm quyền hay bất cứ chính đảng nào
khác cũng phải cai trị theo hiến pháp và luật pháp chế độ dân chủ pháp trị, đa
đảng đã được ban hành.
2.-
Hai là, nếu những người CSVN ngoan cố bám lấy quyền hành, trong điều kiện lượng dân chủ đã tích lũy thừa đủ, thì họ sẽ bị lật
đổ bằng chính sức mạnh của quần chúng nhân dân. Nghĩa là, vào thời điểm mà, mâu
thuẫn giữa nhà cầm quyền CSVN đã không còn là mâu thuẫn với một vài giai cấp
trong xã hội, mà trở thành mâu thuẫn đối kháng với mọi giai cấp, với toàn xã hội.
Giai cấp cầm quyền (là đảng CSVN) sẽ bị cô lập, sẽ tạo ra tiền đề sụp đổ
cho chế độ mà chính lãnh tụ cộng sản Nga Vladimir Lenine đã chỉ ra rằng,
khi “tình thế cách mạng chín muồi” cách mạng quần chúng nhằm lật
đổ chính quyền sẽ nổ ra và nhất định thắng lợi.
Bởi vì, trong tình thế này thì chính sức mạnh vùng
lên của nhân dân bị áp bức, bóc lột đã đạt đến biên độ “tức nước vỡ bờ”, sẽ
giật sập chế độ. Vì lúc đó các công cụ bảo vệ chế độ chuyên chính CS (quân
đội, công an…) sẽ đứng về phía nhân dân, sẽ quay súng bắn vào đầu những
kẻ cầm quyền độc tài ngoan cố hay sẽ bỏ chạy để mặc làn sóng biểu tình của nhân
dân ào lên đè bẹp giai cấp cầm quyền bằng sức nặng của toàn khối nhân dân, chứ
không cần sức mạnh của bạo lực quân sự.
Ðây không chỉ là lý luận Marx - Lenin về đấu tranh
cách mạng mà là một thực tế đã xẩy ra tại Liên Xô vào đầu thập niên 1990, khi
nhân dân Liên Xô bao vây viện Duma (Hạ viện). Lúc ấy, dân chúng ào lên,
quân đội, công an, mật vụ vốn là công cụ bảo vệ nền chuyên chính vô sản Xô viết
thiết lập hơn 70 năm ở đất nước này(1917-1991), đã bỏ chạy. Chế độ Xô viết đã sụp
đổ tan tành, kéo theo sau đó sự tiêu vong cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Ðông Âu, để cùng hình thành chế độ dân chủ pháp trị đa đảng, với cơ cấu kinh tế
thị trường tự do như hiện nay.
III/-KẾT
LUẬN:
Nỗ lực và ý hướng chung của các nhà lãnh đạo chế độ
Bắc Hàn độc tài cộng sản và chế độ Nam Hàn dân chủ pháp trị là nhắm thành đạt
hai mục tiêu: hòa giải dân tộc và thống nhất đất nước một cách hòa bình. Đây là
một tiến trình không đơn giản và có thể kéo phải mất một thời gian nhất định,
vì mới khởi sự giai đoạn 2 (Hiệp thương để hòa giải dân tộc, cân bằng phát
triển kinh tế…) để kết thúc giai đoạn 3 (thống nhất đất nước…).
Trông người lại nghĩ đến ta, Việt Nam thì đã thống
nhất hơn 43 năm rồi, nhờ đó hòa giải dân tộc theo nghĩa hài hòa giữa nhân dân
hai miền Bắc cộng sản – Nam quốc gia thì như đã được xóa mờ qua thực tế sống
chung; nên có thể không còn là một trở ngại. Nghĩa là Việt Nam không còn vấn đề “hòa
giải và hòa hợp dân tộc” mà chỉ còn vấn đế “hóa giải những mâu thuẫn
về lãnh đạo dân tộc”, là mâu thuẫn giữa “độc tài toàn trị” với
“dân chủ pháp trị”. Mâu thuẫn đối kháng này có thể được giải quyết dễ
dàng và nhanh chóng hơn, vì không cần sự thương thảo song phương để tìm sự đồng
thuận của đôi bên (như Bắc và Nam Hàn đang làm), mà hệ tại một bên
là đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện nay “đơn phương, tự nguyện,
tự giác, từ bỏ chế độ độc tài toàn trị cộng sản” (tự diễn biến, tự chuyển
đổi) chủ động thực hiện dân chủ hóa đất nước theo một tiến trình hòa bình,
tịnh tiến một cách phù hợp với tình hình thực tiễn, để duy trì sự ổn định chính
trị, an toàn xã hội, tránh xáo trộn bất lợi cho đất nước.( (diễn biền hòa
bình).
Người Viết thành tâm mong muốn, đảng Cộng sản Việt
Nam cần khởi động tiến trình này càng sớm càng tốt, để giải quyết dứt điểm “cuộc
nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng” kéo dài nhiều thập niên qua làm phân
hóa và suy yếu dân tộc. Nhất là người đứng đầu đảng CSVN là Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng mà tin mới từ Hội Nghị Trung ương 8 đang họp tại Hà Nội cho hay sẽ
kiêm nhiệm Chủ tịch nước nay mai. Từ vị thế tập trung quyền lực này và uy thế
áp đảo trong nội bộ đảng, người dân mong rằng, nếu chưa thể là một Mikhain
Gorbachov của Việt Nam, vì hạn chế tuổi tác (đã 74 tuổi rồi) và “Vòng
Kim Cô Đỏ” của ngoại bang còn xiết chặt, mong Ông chuẩn bị tiền đề cho
sự ra đời của một Gorbachov thuộc thế hệ con cháu. Từ đó và nhờ đó mới thống nhất
được toàn lực quốc gia, để tập trung trí tuệ, nhân lực, tài lực nhân dân trong
nước và người Việt hải ngoại khắp nơi vào công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước đến phú cường và văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại.
Đồng thời, tạo được thế lực bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia và đập tan mọi cuộc xâm lăng bất cứ từ đâu tới.
Thiện
Ý
Houston, ngày 3-10-2018
No comments:
Post a Comment