Tây
Nguyên qua khám phá của các học giả người Pháp
Nguyễn
Quang Diệu
01/05/2021
http://nghiencuuquocte.org/2021/05/01/tay-nguyen-qua-kham-pha-cua-cac-hoc-gia-nguoi-phap/
Kể từ thế hệ giáo sĩ tiên khởi, Alexandre de
Rhodes và Joseph Tissanier – những người Pháp đến Đại Việt thế kỷ XVII, đến nay
đã hơn bốn thế kỷ mối lương duyên Pháp-Việt chưa bao giờ đứt đoạn.
Cùng với những thương nhân, thừa sai, nho sĩ
người Ý, Anh, Hà Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, các giáo sĩ người Pháp đã để lại
nhiều ghi chép quan trọng về văn hóa – lịch sử nước Việt xưa qua từng thời kỳ.
Ban đầu là ghi chép mắt thấy tai nghe, đến những nghiên cứu bước đầu nhằm cung
cấp cho người châu Âu những hiểu biết cơ bản về con người và xứ sở Việt Nam
cũng như phục vụ cho công cuộc thực dân của người Pháp nửa sau thế kỷ XIX. Đầu
thế kỷ XX, khi người Pháp đã áp đặt được sự thống trị trên toàn lãnh thổ Việt
Nam, việc nghiên cứu về một Việt Nam đa diện được thực hiện rộng khắp, từ văn
hóa, lịch sử đến luật pháp, thể chế, tang ma, căn tính, phù thuật, tín ngưỡng…
Không chỉ ở vùng đồng bằng, người Pháp còn chú trọng đến vấn đề giáo dục và
truyền giáo nơi vùng cao, vùng sâu, Tây Nguyên là vùng đất mà họ nhắm tới.
Từ thập niên 1840 đến đầu thập niên 1970, người
Pháp đã đến truyền giáo, lưu trú dài hạn, khảo sát và nghiên cứu Tây Nguyên của
chúng ta một cách liên tục, đầy đủ và khoa học. Họ thuộc đủ thành phần: nhà
truyền giáo, nhà thám hiểm, tiếp sau đó là nhà cai trị, nhà khoa học. Họ bản địa
hóa chính họ, mang đến những công trình nghiên cứu về vùng đất và người nơi đây
vừa tổng quát vừa cơ bản, thực tiễn, sâu sắc và đôi khi mộng mơ. Để rồi giờ đây
muốn tìm hiểu về mảnh đất Tây Nguyên, chúng ta không thể không đọc những hồi ký
hay nghiên cứu dân tộc học của Pierre Dourisboure (1825-1890), Henri Maître
(1883-1914), Georges Condominas (1921-2011), Jacques Dournes (1922-1993), Anne
de Hautecloque-Howe, Jean Boulbet (1926-2007)…
http://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2021/05/Tay-nguyen.jpg
Một số công trình nghiên cứu về Tây Nguyên của các học
giả người Pháp đã được xuất bản tại Việt Nam.
Bước chân khai phá
của Cố Ân
Linh mục Pierre Dourisboure thuộc thế hệ thừa
sai đầu tiên trên vùng đất Tây Nguyên, được gọi trìu mến với tên Việt là Cố Ân.
Trong 41 năm linh mục và tông đồ, ông dành 35 năm mục vụ truyền giáo cho người
dân tộc ở Tây Nguyên. Sống giữa rừng thiên nước độc và thú dữ, sống với người bản
xứ bất đồng ngôn ngữ, thiếu thốn vật chất, bệnh tật, cô đơn… nhiều đồng nghiệp
của ông không thể trụ lại quá lâu, có thừa sai qua đời chỉ vài tháng khi đặt
chân đến Tây Nguyên, có thừa sai chịu được mười năm rồi cũng về với Chúa,
Dourisboure là trường hợp đặc biệt, có lẽ là lâu nhất trong lịch sử truyền giáo
nơi vùng đất này.
Cha Dourisboure bắt đầu viết hồi ký tại Kon Kơ
Xâm (Kon Tum) vào năm 1865 và hoàn tất vào ngày 28-1-1870 tại Chủng viện Hội Thừa
sai Paris, tập hồi ký được xuất bản lần đầu năm 1873 tại Paris (Nxb de Soye). Sống
thực địa, ngủ thực địa, hy sinh thân mình trước các cuộc truy bắt đạo lúc bấy
giờ… Cha Dourisboure có đủ thời gian để quan sát và trải nghiệm những gian khổ
vì công cuộc truyền bá đức tin, tất cả những điều đó được ông ghi chép lại
trong tập hồi ký có nhan đề Les sauvages Bahnars đã được dịch sang Việt
ngữ là Dân Làng Hồ.[1]
Qua tập hồi ký được gửi gắm nhiều cảm xúc, Cha
Dourisboure kể lại hành trình truyền giáo gian khổ của các vị thừa sai tiên khởi
và công cuộc khai phá miền đất Tây Nguyên Kontum, khởi đầu cho việc thành lập
giáo phận Kontum sau này. Không chỉ là tài liệu quý về lịch sử truyền giáo, tập
hồi ký còn dành một dung lượng khiêm tốn để miêu tả phong tục, tập quán, lối sống
của người Ba Na nửa cuối thế kỷ XIX.
Nhà nhân học chân
trần Jacques Dournes
Gần 100 năm sau khi Cha Dourisboure đặt chân đến
truyền giáo ở Đông Đàng Trong năm 1849, có vị linh mục trẻ tên là Jacques
Dournes, học triết học và thần học ở Đại chủng viện Versailles, được phái sang
tòa Khâm mạng Sài Gòn năm 1946. Một năm sau ông về vùng Kala, gần Djiring (Di
Linh – Lâm Đồng) truyền đạo và chuyên tâm học ngôn ngữ của người bản địa.
Dournes gắn bó với người Srê gần chín năm thì bị triệu hồi về Pháp vào năm 1954
vì tội “xao lãng mục vụ”. Năm 1955, Giám mục Paul Seitz ở Kontum mời Dournes trở
lại Tây Nguyên, nơi có tộc người Jörai cư trú. Ông sống ở đó 11 năm trước khi bị
buộc phải rời khỏi Việt Nam năm 1970 vì một số lý do khách quan khiến ông vô
cùng đau đớn.
Dournes cắm mình ở Tây Nguyên gần ¼ thế kỷ vậy
mà ông cho là còn quá ít, rằng mình đến vùng Jörai quá muộn. Ông chú tâm học tiếng
bản xứ, không dùng phiên dịch, vì ông hiểu rằng chiều sâu nhất của truyền thống
văn hóa Jörai là văn hóa truyền khẩu. Ông phải nói như người bản địa thay vì
dùng phiên dịch, điều tối kị đối với một nhà dân tộc học như ông.
Vì người Tây Nguyên, vì say mê con người, tập
quán và văn hóa vùng đất này, Dournes muốn bỏ lại tất cả những gì ông có, rời bỏ
cội rễ, kể cả quê hương. Dournes dường như “bắt rễ” với người Thượng và giữ thế
đứng ngoài xã hội chính thống để tự do quan sát. Chính vì vậy, trong một cuộc
trả lời phỏng vấn Andrew Hardy bảo rằng “Tôi hiểu cặn kẽ, từ mọi phía: phía
Pháp, phía Việt Nam, và phía những người dân tộc thiểu số.”[2] Dournes từng nói, “nếu người ta không dầm
chân trần trong ruộng, thì sẽ không biết gì hết, bởi vì mọi sự diễn ra trong đầu
con người.”[3] Suy nghĩ, phản ứng, tư duy, mơ mộng đủ cả,
khi bùn lên đến gối. Nghiên cứu thực địa, nghe-nói và sống như người bản địa là
một phần của dân tộc học. Vì tất cả lẽ đó nên Dournes được gọi là nhà nhân học
chân trần. Khi về Pháp, cũng là lúc không còn được đi chân trần trong bùn, ông
tìm được nơi trú ẩn trong giới khoa học nhưng sợi dây gắn kết ông với nơi gọi
là nhà đã không còn. Tuy vậy, ông không thôi mộng mơ, không thôi mơ tưởng về miền
Jörai.
Dournes đến Việt Nam với tư cách là nhà truyền
giáo tập sự người Pháp, rời Việt Nam – cũng là rời bỏ ngôi nhà trên vùng cao của
mình – trong vài trò nhà dân tộc học chịu khó điền dã gần 25 năm nơi thực địa.
Là nhà truyền giáo Cơ Đốc nhưng Dournes không cải đạo cho một ai ở Tây Nguyên,
vì ông không muốn phá hủy nền văn hóa, tôn giáo nguyên thủy nơi này. Là người
thích phiêu lưu cho nên Dournes xiêu lòng trước nền văn hóa sơ khai lãng mạn và
con người Tây Nguyên. Lịch sử, văn hóa, kinh tế và nền văn minh người Thượng vì
thế là những chủ đề Dournes đặc biệt quan tâm, tìm hiểu và thể hiện qua các
nghiên cứu của mình.
Theo thống kê, Dournes đã xuất bản khoảng 250
công trình/sách/báo nghiên cứu về Tây Nguyên, ông là tác giả có nhiều sách được
dịch sang Việt ngữ nhất trong chủ đề này.
Chưa đầy năm năm đến Tây Nguyên, Dournes xuất
bản công trình dân tộc học đầu tiên có nhan đề Les populations montagnardes
du Sud Indochinois (Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương)[4] ký bút danh Dam Bo – cái tên này do nhóm
người K’Ho Srê đặt. Từ đó cho đến khi bị trục xuất hẳn khỏi Việt Nam, Dournes
đã xuất bản rất nhiều nghiên cứu về Tây Nguyên trên các tạp chí uy tín, trong số
đó có thể kể đến Bois-bambou: Aspect végétal de l’univers Jorai (Gỗ-Tre:
Phương diện thực vật của thế giới Jörai).[5] Giai đoạn 1972-1978 ông làm việc say mê,
những công trình quan trọng nhất của ông về người K’Ho, Srê, Mạ, Jörai cũng ra
đời trong khoảng thời gian này. Năm 1972, ông xuất bản cuốn sách Coordonnées:
Structures Jörai familiales et sociales (Tọa độ: Cấu trúc gia đình và xã
hội của người Jörai),[6] vừa được Omega dịch sang Việt ngữ lần đầu.
Từ lựa chọn định đô, lắng nghe người bản xứ đến nhu cầu tìm hiểu bản nguyên hay
không gian sống và tinh thần của người Jörai, Dournes đã định nên cấu trúc quan
trọng, gia đình và xã hội, của họ. Năm 1973, ông bảo vệ thành công luận án tiến
sĩ tại trường Sorbonne với đề tài Pötao, les maîtres des états, étude
d’anthropologie politique chez les Jörai (Pötao: Những bậc thầy lãnh thổ,
nghiên cứu nhân học chính trị ở người Jörai). Đến năm 1977, ông cho xuất bản
luận án dưới nhan đề Pötao, une théorie du pouvoir chez les Indochinois Jörai
(Pötao, một lý thuyết về quyền lực ở người Jörai Đông Dương)[7], ông đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp dân
tộc học ở công trình này và qua đó xác lập được vị thế trong giới khoa học lúc
bấy giờ. Qua Pötao, Dournes định ra một hệ thống nghi lễ, chính trị của
vua Pötao, xác lập “một hệ thống chính trị mà không có thể chế chính trị, không
có nhà nước, quân đội hay những giáo điều chính trị, tôn giáo.”[8] Ông giễu cợt tất thảy những người lâu nay
nhầm hiểu về người Pötao và Jörai, gọi họ là những kẻ ngoại lai, bao gồm nhà
cai trị thực dân, triều đình ở miền dưới, nhà dân tộc học và cả nhà truyền
giáo, trong đó có ông.
Ở trang 76 nguyên bản tiếng Pháp cuốn Pötao,
một lý thuyết về quyền lực ở người Jörai Đông Dương ông viết, “Yo Sar Luk
[tên Mnông Gar của Georges Condominas], và Dam Böt [tên Mạ của Jean Boulbet],
người tình của các cô gái thuộc dòng họ lớn người Mạ, và chính tôi nữa, lúc bấy
giờ là Dam Bo, chúng tôi chưng cái tên ‘man di’ của chúng tôi lên như là cái
bích chương phơi bày giấc mơ của chúng tôi: hòa nhập vào một dân tộc khác biệt
hẳn với cộng đồng gốc của chúng tôi, trong khi biết rõ rằng chúng tôi vẫn cứ là
người da trắng, trong con mắt của những người mà chúng tôi cho rằng chúng tôi
đã được người ta chấp nhận vào xã hội của họ – kỳ thực là chúng tôi được áp đặt
vào đó – và đối với họ, vì là người lạ nên chúng tôi được miễn thứ cho cuộc sống
bên lề và các ưu tiên của mình, bất chấp tất cả, trong một bối cảnh thuộc địa.”[9] Với Dournes, những người tự nhận là người
bản xứ ấy vẫn đại diện cho quyền lực và đặc quyền thực dân, trong nhãn quan
riêng biệt của ông việc tự nhận đó, nhằm thể hiện uy tín, là điều lố bịch.
Một năm sau, Dournes xuất bản công trình tuyệt
vời khác, có lẽ là đỉnh cao cuối cùng của ông, Forêt, femme, folie: Une
traversée de l’imaginaire Jörai (Rừng, đàn bà, điên loạn: Đi qua miền mơ
tưởng Jörai).[10] Đàn ông-ngoại giới ngoài kia, đàn
bà-nội giới đến bìa rừng thiêng, đàn bà-“ký ức”, “tự nhiên”, đàn
ông-“lời nói”, phát điên vì nàng, đàn bà là chúa của làng, là niềm
quyến rũ các chàng thế thôi… Trong hệ thống thuật ngữ của Dournes, ngoại
giới là: cái ngoài kia, trong rừng, cái bất trắc; nội giới là cái ở
đây, tức là làng, cái yên bình; tự nhiên vốn mang tính nữ, làng là phần
tự nhiên đã được thuần hóa, đã thành của con người và mang tính người…
Đó là một Jörai nguyên bản ở mãi trong Dournes
và khiến ông hoài mơ tưởng, cũng là một Jörai thực tế lúc đó đã cải đạo, đã biến
đổi từ tác động bên ngoài và cả bên trong đời sống xã hội của họ. Một Jörai mà
ông chua xót mỗi khi nghĩ về.
Đó là một Jörai với hàng trăm huyền thoại –
“những huyền thoại về cái hiện tại, những mộng mị của con người đang sống hôm
nay”, một Jörai nguyên bản ở mãi trong ông và khiến ông hoài mơ tưởng. Cũng là
một Jörai, thực tế lúc đó bên kia địa cầu, đã cải đạo, đã biến đổi từ tác động
bên ngoài và cả bên trong đời sống xã hội của họ, một Jörai mà ông chua xót mỗi
khi nghĩ về. Rừng, đàn bà, điên loạn là “một chứng nhân cho cách nghĩ, lối
sống và quan niệm luyến ái của người Jörai từ góc nhìn của một người trong cuộc
[J. Dournes].”
Ngoài ra, còn tập sách ảnh về Tây Nguyên do
Dournes chụp được xuất bản ở Việt Nam dưới nhan đề Xứ Jörai, và một cuốn
sách viết về ông cùng các nội dung ông trả lời phỏng vấn năm 1992 có nhan đề Nhà
nhân học chân trần: Nghe và đọc Jacques Dournes.
Từ năm 1950, Dournes đã viết, và trở thành
trích dẫn kinh điển, rằng “nếu phải hiểu để mà có thể yêu [Tây Nguyên], thì lại
phải yêu để mà có thể hiểu.” Dournes yêu Tây Nguyên hơn tất thảy, hiểu tư duy
Jörai và có lẽ Jörai hơn bất kỳ người Jörai thực thụ nào.
Condominas nằm mơ
bằng tiếng Mnông Gar
Georges Condominas từng bảo ‘tôi nằm mơ bằng
tiếng Mnông Gar’, cũng chính mảnh đất miền Trung Việt Nam này khơi cho
Condominas ý tưởng về khái niệm ‘Không gian xã hội’ nay đã quá nổi tiếng, và
cũng nhờ những ghi chép của Condominas mà lần đầu tiên thế giới biết đến sự tồn
tại của người Mnông Gar cùng với cách ăn mặc, sinh hoạt, hoạt động kinh tế, đời
sống tinh thần và những phong tục tập quán đặc sắc của họ qua công trình Nous
avons mangé la forêt de la Pierre-Génie Gôo – Chronique de Sar Luk,
village mnong gar (tribu proto-indochinoise des hauts plateaux du Viet-Nam
central) (Chúng tôi ăn rừng Đá-Thần Gôo – Biên niên của Sar Luk, làng
Mnông Gar (Bộ lạc Tiền-Đông Dương trên cao nguyên miền Trung Việt Nam)).
Chúng tôi ăn rừng… đi kèm với một địa danh nhất
định, được dùng để chỉ một năm cụ thể nào đó. Đây là cách tính thời gian đặc biệt
của người Mnông Gar, thời gian được gọi tên bằng những vạt rừng do họ phát và đốt
để gieo trồng hằng năm. Chúng tôi ăn rừng Đá-Thần Gôo là tên mà người dân ở
làng Sar Luk dùng để gọi năm trồng trọt kèo dài từ cuối tháng 11 năm 1948 đến đầu
tháng 12 năm 1949. Đây cũng là khoảng thời gian mà Condominas cùng hòa đồng với
cuộc sống sinh hoạt của người bản địa và ghi chép lại những gì mắt thấy tai
nghe để viết nên một biên niên sử của Sar Luk.
Cuốn sách là một sưu tập những tư liệu thô thu
nhặt được và rút ra từ các sổ tay ghi chép của Condominas trong thời gian sống
tại Sar Luk, và tạo nên tên tuổi của Condominas trong ngành Dân tộc học.
Dưới ngòi bút sắc sảo của người quan sát tỉnh
táo – nhà dân tộc học đam mê khoa học thuần túy đứng ngoài chính trị, một cái
nhìn từ bên trong chứ không phải từ nền văn hóa cao nhìn xuống nền văn hóa thấp
kém hơn theo lề thói tư duy thông thường bấy giờ, từng tập tục lễ hội, từng lời
nói, cử chỉ của người Mnông Gar được miêu tả một cách sống động, tường minh và
chân thật hơn bao giờ hết.
Chúng tôi ăn rừng
nguyên là luận án của Georges Condominas bảo vệ tại Viện Khảo cứu Cao cấp
(EPHE, Pháp), trong “Lời nói đầu” cho bản tiếng Việt năm 2003, ông bảo rằng
công trình này “được viết ra không phải để bảo vệ một luận án ở đại học, cũng
chẳng phải để thực hiện một tác phẩm văn học.” Mục đích của Condominas cũng
không phải là vẽ nên một bức tranh kiểu chuộng lạ hay dựng nên một công trình
mô tả dân tộc học tiền sử nào đó, mà là lột tả cái thực tế như nó được sống
trong đời thực khi ông quan sát.
Condominas viết Chúng tôi ăn rừng “để
đáp ứng mong ước trao gửi một thông điệp hữu nghị tối hậu”, thực hiện một nghĩa
vụ tình bạn thay vì nghĩa vụ khoa học, cũng là để trả ơn người Mong Gar ở Sar
Luk – những con người đã cho phép ông được sống cùng trong suốt hai năm
(1948-1949), chấp nhận ông đến với thế giới của họ một cách chân thành và đã cứu
lấy mạng sống của ông.
Với Condominas, mục đích của cuốn sách này là
trình bày những tư liệu thô về cuộc sống một làng Mnông Gar bấy giờ ông dự phần,
quan sát và chịu chung mọi thăng trầm với tư cách là một “hộ” Mnông Gar. “Một
làng, bởi vì đơn vị chính trị cổ truyền của bộ lạc này không vượt quá phạm vi
đó: chính thông qua đơn vị này ta có thể cảm nhận ra quá trình thích nghi của
nó với đời sống hiện đại.”
Condominas khiêm tốn khi cho rằng, “đây chỉ
đơn giản là những tư liệu, tức một mặt không hề có ý định xây dựng cấu trúc xã
hội học, mặt khác cũng chẳng hề muốn làm văn học.” Thế nhưng giá trị mà cuốn
sách mang lại đã vượt xa hơn thế, trở thành cuốn sách kinh điển của ngành dân tộc
học, đồng thời là một tác phẩm văn học tràn đầy hơi thở của con người trên mảnh
đất núi rừng Tây Nguyên.
Ngay khi ra đời, Chúng tôi ăn rừng nhanh
chóng được đón nhận và gây được tiếng vang lớn trong giới nghiên cứu học thuật
của Pháp lúc bấy giờ. Cuốn sách được nhà nhân học lừng danh Claude Lévi-Strauss
xem là “đánh dấu sự đăng quang trong nền văn học dân tộc học của một thể loại
hoàn toàn mới, nổi bật vì sự gắn bó với hiện thực bản địa, sâu sắc hơn tất cả
những gì đã từng có trước nay.”
Người Ê Đê và trải
nghiệm sống của Anne de Hauteclocque-Howe
Cũng chính Condominas đã dành những lời khen tuyệt
vời nhất cho công trình nghiên cứu Les Rhadés: Une société de droit maternel
(Người Ê Đê: Một xã hội mẫu quyền) của nhà nghiên cứu Anne de
Hauteclocque-Howe – người đã hoàn thành giấc mơ dang dở của Condo: thực địa,
nghiên cứu và phân tích về người Ê Đê và mẫu quyền – quy tắc điều hòa chủ đạo của
xã hội này. Với thế mạnh tư duy của nhà toán học, Phi châu học và đặc biệt là
phụ nữ nên bà đã “sống thực sự trong lòng một xã hội nơi mà sự phụ thuộc về mặt
gia đình cùng việc cư trú được quyết định chủ yếu bởi ‘các chị và các mẹ’.” Vì
thế, qua công trình Người Ê Đê: Một xã hội mẫu quyền – kết quả của 14
tháng (tháng Tư năm 1961 đến tháng Sáu năm 1962) tác giả sống ở Đắc Lắc, Condo
tin rằng Anne de Hauteclocque-Howe đã đi xa hơn nhiều so với ông, nếu ông tự làm
lấy công việc đó thay vì đi Togo. Việc nghiên cứu được tác giả “tiến hành một
cách thông minh và tỉ mỉ để phát hiện trong các chi tiết thích đáng một cơ chế
xã hội đặc biệt phức tạp.” Trong quyển sách này, Anne de Hauteclocque đã biết kết
hợp tính chặt chẽ “khoa học với một lối viết thượng thừa” nhằm phục hồi chất
máu thịt của đời sống cho những sơ đồ tri thức.
Tây Nguyên với những
nhà thám hiểm
Hai nhà thám hiểm lớn đã để lại những ghi chép
quan trọng về Tây Nguyên có thể kể đến là Henri Maître và Jean Boulbet.
Boulbet đã bản địa hóa chính mình với cái tên
Mạ Dam Böt, ở đó ông đi băng qua các chòm núi, lưu thông qua các rừng cây hùng
vĩ nhất, thăm các phong cảnh danh tiếng nhất, tắm trong các lỗ nước có tiếng nhất,
ngủ trong phần lớn các làng, tham dự nhiều cuộc lễ hiến sinh, tham dự vài cuộc
thương thuyết và nhiều cuộc thanh toán, làm cho cư dân bản xứ nói càng nhiều
càng tốt (thơ, cổ ca)… Mục đích đến Tây Nguyên được Boulbet viết trong cuốn
sách dân tộc học Pays Maa’, Domaine des Génies (Xứ người Mạ, lãnh thổ
của Thần linh) xuất bản năm 1967, rằng “chúng ta có mặt ở đây để làm lại
cái xứ sở miền núi này, ‘xứ Mọi’ của những người xưa […] để giữ cho họ đứng
ngoài những xáo động đáng lo của chính trị […]. Tôi đến xứ sở của họ để sống
cái tuổi hai mươi của tôi một cách đầy đặn đến mức tối đa có thể […]. Tôi đã cưới
một cô gái thuộc một trong những dòng họ lớn nhất trong vùng…” Nhận xét về điều
này, Dournes viết trong Pötao “nhiều người châu Âu muốn tự coi mình là
vua vì nhu cầu áp đặt và ý muốn làm cho những người nguyên thủy được coi là dễ
bảo ‘tiến bộ’, mà hoàn toàn không hề biết chút gì về cơ chế của quyền lực trong
xã hội của họ.” “Điều chẳng hề ngăn người ta làm tốt công việc dân tộc học,
công việc mà anh chàng thực dân trẻ được cuốn vào một cách tự nhiên.”[11] Xứ người Mạ thể hiện niềm mong muốn
thầm kín của nhà dân tộc học trẻ, “không phải là ý chí muốn có quyền lực thúc đẩy
anh ta, mà là sự hấp dẫn của ‘Cái lạ’, dầu anh chỉ cảm thấy một cách mơ hồ.”
Cái lạ (exotique), trong mọi mặt đời sống Tây Nguyên nói chung, với người Pháp
thực sự hấp dẫn, gây tò mò, không cưỡng lại được. Cái lạ đó mê hoặc các nhà dân
tộc học mới bước vào nghề, Condominas hay Boulbet không ngoại lệ.
Theo thông tin của Oscar Salemink, trong Nhà
nhân học chân trần, nhà dân tộc học khó tính Dournes đánh giá rất cao cuốn
sách Les jungles Moï (Rừng người Thượng), xuất bản năm 1912, của
Henri Maître. Andrew Hardy thì viết rằng, Les jungles Moï và Pötao là
hai cuốn sách tuyệt vời nhất về Tây Nguyên mà ông từng đọc. Rừng người Thượng
gồm ba phần, đến nay chúng ta chỉ mới dịch ra Việt ngữ phần III của cuốn
sách.
Nếu như hai phần đầu là những lời tụng ca của
Maître dành cho rừng hay những câu chuyện về chính Maître một cách chủ quan và
ít có giá trị dân tộc học, “chuyện kể về Henri Maître và rừng của Henri
Maître”, thì phần III là nội dung về con-người-sống-trong-rừng dưới góc nhìn
khoa học, khách quan của một nhà thám hiểm đồng thời là nhà dân tộc học Henri
Maître. Đánh giá về giá trị nội dung của phần III này, Andrew Hardy và Nguyễn
Văn Huy cho rằng, “một nghiên cứu tổng quát không chỉ đầu tiên mà còn chất lượng
nhất về Tây Nguyên trong số những gì đã xuất bản.”[12] Một lý do khác khiến công trình của
Maître trở nên kinh điển là nhờ phương pháp nghiên cứu thực địa và khảo cứu tư
liệu để tổng hợp về các dân tộc cao nguyên miền Thượng trong suốt chiều dài lịch
sử.
Nếu Pierre Dourisboure là người, từ rất sớm,
kiên trì khai phá Tây Nguyên ở góc độ tôn giáo thì Henri Maître là người tiên
phong trong khoa học, trong nghiên cứu về nền văn minh, con người, vùng đất và
núi rừng Tây Nguyên.
Vĩ thanh
Từ Pötao đến Tọa độ vừa được dịch
ra Việt ngữ là khoảng thời gian tám năm chờ đợi, những gì còn lại là công việc
tái bản các bản dịch được in trước đó, không có cái mới.
Mong trong một tương lai gần, chúng ta được đọc
những bản dịch Việt ngữ quan trọng khác về chủ đề Tây Nguyên hay lịch sử-dân tộc
liên quan, ví dụ: Sons of the Mountains (Những người con của núi)
của Gerald Cannon Hickey, Bois-bambou: Aspect végétal de l’univers Jorai (Gỗ-Tre:
Phương diện thực vật của thế giới Jörai) của Jacques Dournes, L’Exotique est
quotidien (Cái xa lạ là cái thường ngày) của Georges Condominas, Les Mnong
des Hauts-Plateaux (Người Mnông ở Tây Nguyên) của Albert-Marie
Maurice, vân vân và vân vân.
Nhà văn Nguyên Ngọc từng nói, dân tộc học trong
một cách hiểu nào đó không phải là nghề mà là một nghiệp, người ta không ‘làm’
dân tộc học, người ta ‘sống’ nó. Người Pháp đã ‘sống’ với ‘cái lạ’ và để lại
cho chúng ta những hiểu biết căn bản nhất về vùng đất Tây Nguyên thông qua những
nghiên cứu dân tộc học, ghi chép, sách vở. Nhìn lại những gì đang có, điều dễ
thấy là hiện tại còn quá ít sách được dịch sang Việt ngữ, công việc nói tưởng dễ
nhưng cũng thật khó nếu không yêu-hiểu-nghĩ về Tây Nguyên như Dournes đã từng
nói.
—————
[1] Theo tiếng Ba Na, Kontum nghĩa là Làng Hồ. Ban dịch thuật thuộc nhóm Đại
Chủng sinh giáo phận Kontum chuyển ngữ, Nxb Đà Nẵng, 2010.
[2] Andrew Hardy, Nhà nhân học chân trần: Nghe và đọc Jacques Dournes,
Nguyên Ngọc dịch, Nxb Tri thức, 2013, tr. 20-21.
[3] Andrew Hardy, Nhà nhân học chân trần: Nghe và đọc Jacques Dournes,
Nguyên Ngọc dịch, Nxb Tri thức, 2013, tr. 4.
[4] Dam Bo, Les populations montagnardes du Sud Indochinois,
France-Asie, Lyon, 1950 (đặc san). Cuốn sách đã được Nguyên Ngọc dịch sang Việt
ngữ với nhan đề Miền đất huyền ảo.
[5] Jacques Dournes, Bois-bambou: Aspect végétal de l’univers Jorai,
CNRS, Paris, 1969, 196 trang.
[6] Jacques Dournes, Coordonnées: structures Jörai familiales et
sociales, Institut d’Ethnologie, Paris, 1972. Nguyễn Phương Chi dịch sang
Việt ngữ, Nguyên Ngọc hiệu đính và giới thiệu, Omega+ và Nxb Thế giới,
2021.
[7] Jacques Dournes, Pötao, une théorie du pouvoir chez les Indochinois
Jörai, Flammarion, Paris, 1977. Nguyên Ngọc dịch sang Việt ngữ, Nxb Tri thức,
Hà Nội, 2013; Omega+ tái bản năm 2018.
[8] Oscar Salemink, “Barefoot in the Mud: Reflections on Jacques Dournes”
(Chân trần trong bùn: Những suy ngẫm về Jacques Dournes), trong Nhà
nhân học chân trần: Nghe và đọc Jacques Dournes, sđd, tr. 165.
[9] Jacques Dournes, Pötao, một lý thuyết về quyền lực ở người Jörai
Đông Dương, sđd, 2018, tr. 149.
[10] Jacques Dournes, Forêt, femme, folie: Une traversée de l’imaginaire
Joraï, Aubier, Paris, 1978. Nguyên Ngọc dịch sang Việt ngữ, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội, 20063; Omega+ tái bản năm 2018.
[11] Jacques Dournes, Pötao, một lý thuyết về quyền lực ở người Jörai
Đông Dương, sđd, 2018, tr. 148.
[12] Henri Maître, Rừng người Thượng, Lưu Đình Tuân dịch, Nguyên Ngọc
hiệu đính, Nxb Tri thức, 2008, tr. 15.
No comments:
Post a Comment