Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
16/05/2021
http://www.phantichkinhte123.com/2021/05/sach-pandemie-le-basculement-du-monde.html#more
Một năm trước, ngày
8 tháng 4 năm 2020, chuyến tàu lửa đầu tiên rời Vũ Hán vào ngày gỡ bỏ phong tỏa.
(Nguồn: DW)
Thế giới sau khi tiêm chủng sẽ
quay trở lại thời kỳ trước đại dịch? Không hẳn thế, nếu chấp nhận sự chứng minh
được lập luận một cách chặt chẽ của tác giả Hubert Testard trong cuốn Pandémie,
le basculement du monde [Đại dịch, sự chuyển hướng của thế giới], nhà
xuất bản Editions de l'Aube, ngày 18 tháng 3 vừa qua. Cuộc khủng hoảng y tế đã
gây ra hàng loạt cú sốc ở nhiều cấp độ, kỹ thuật số, thương mại, tài chính, xã
hội hoặc khí hậu. Chúng ta sẽ phải sống chung với điều đó trong ít nhất một thập
kỷ. Các xu hướng tồn tại trước đó đang tăng tốc, nhưng không chỉ có thế. Toàn cầu
hóa đang trong quá trình chuyển đổi. Sự đảo lộn của thế giới khiến cho toàn cầu
hóa nghiêng về phía châu Á nhiều hơn, nơi công tác phòng chống đại dịch hiệu quả
hơn. Nhưng chúng ta đang nói đến vùng nào của châu Á? Đó chính là vấn đề, trong
số nhiều vấn đề khác, làm nên sắc thái của cuốn sách. Cuốn sách, một cách thực
dụng, kêu gọi không nên rơi vào cuộc đối đầu có hệ thống giữa phương Tây và
Trung Quốc. Vì lợi ích của khí hậu và sự đoàn kết thế giới về vấn đề y tế. Cuộc
phỏng vấn.
***
CUỘC PHỎNG VẤN
Hubert Testard là chuyên gia về
châu Á và các vấn đề kinh tế quốc tế. Ông từng là cố vấn kinh tế và tài chính
cho ASEAN, trong 20 năm, ở các đại sứ quán Pháp tại Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc và Singapore. Ông cũng đã tham gia soạn thảo các chính sách của châu Âu và
đặc biệt là chính sách thương mại, cho dù đó là WTO hay những cuộc đàm phán với
các nước châu Á. Từ 4 năm nay, Hubert Testard là giảng viên, tại trường Cao đẳng
về các vấn đề quốc tế thuộc Học viện chính trị [Sciences Po], về phân tích
tương lai học của châu Á. Ông đã tham gia biên soạn một cuốn sách về cuộc khủng
hoảng châu Á (“Asie, les nouvelles règles du jeu [Châu Á, những luật chơi mới]”,
NXB Philippe Picquier) và đồng tác giả với Brigitte Dyan một cuốn sách có tựa đề
“Quand la Chine investit en France [Khi Trung Quốc đầu tư vào nước Pháp]”, NXB
Agence Française pour les Investissements Internationaux. Ông tốt nghiệp Đại học
Ena và Sciences Po.
Cựu cố vấn tài chính ở Đông Á, Hubert Testard là giảng viên ở Học viện
chính trị [Sciences Po]. (Nguồn: DR)
*
Định nghĩa như thế nào “sự
chuyển hướng” do đại dịch gây ra này, đặc biệt ở Châu Á?
Hubert Testard: Đây là một tập hợp
những cú sốc có quy mô lớn, mà các hiệu ứng tích lũy của chúng dẫn đến sự chuyển
hướng sang một hình thái toàn cầu hóa mới. Trước hết, đó là một cú sốc bất đối
xứng trong giao dịch thương mại thế giới, gây thiệt hại đến các hoạt động kinh
doanh dịch vụ, vốn trước đây là phần hoạt động năng động nhất trong giao dịch
thương mại. Thế nhưng, chúng đã bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với những hiệu ứng
dài hạn trong một số lĩnh vực, như ngành du lịch, tấn công Thái Lan và các đảo
Thái Bình Dương ở châu Á một cách nghiệt ngã, hoặc dịch vụ chuyển kiều hối của
người lao động nhập cư, đang đè nặng lên các nước như Philippines hoặc Nepal. Rồi
chúng ta còn thấy sự chuyển hướng từ thế giới thực sang thế giới kỹ thuật số,
liên quan đến nhiều lĩnh vực: ví dụ, thương mại điện tử hoặc làm việc trực tuyến
từ xa, vốn trước đây là tương đối thứ yếu, thì nay trở thành quan trọng hơn. Sự
chuyển hướng này đặc biệt thấy rõ ở châu Á, nay là khu vực hàng đầu trên thế giới
về số lượng ứng dụng kỹ thuật số ngày càng tăng.
*
Ông cũng nói đến sự chuyển hướng
liên quan đến tính cấp bách của vấn đề khí hậu...
Hubert Testard: Thật vậy, đại dịch
cũng minh họa cú sốc về khí hậu. Do cuộc khủng hoảng Covid-19 là bệnh zoonose [bệnh
truyền nhiễm lây truyền tự nhiên từ động vật sang người, BBT]. Với biến đổi khí
hậu, dạng lây nhiễm này đang nhân bội lên: lượng mưa gia tăng và nạn phá rừng
đã làm cho động vật hoang dã tiếp cận gần với con người hơn và làm tăng nguy cơ
lây nhiễm. Cảm giác cấp bách đang tăng lên. Nhưng nếu không có người châu Á thì
sẽ không thể làm gì được về khí hậu, bởi vì họ tượng trưng cho hơn một nửa lượng
khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu. Họ đang bị đe dọa rất nhiều bởi lũ lụt,
hạn hán, nắng nóng khắc nghiệt như ở Ấn Độ. Đồng thời, nếu châu Á có hành động
cụ thể, thì điều đó sẽ mang ý nghĩa quyết định trong việc giúp chúng ta thoát
khỏi thế bế tắc về khí hậu.
*
Khía cạnh tài chính của sự
chuyển hướng này cũng rất quan trọng, với phương châm “Bằng mọi giá” ở Châu Âu
và Hoa Kỳ… Thế còn Châu Á thì sao?
Hubert Testard: Cú sốc tài chính được
thể hiện bằng biện pháp táo bạo vay nợ của các nước phương Tây, với quy mô chưa
từng có. Chúng ta không biết điều này sẽ dẫn đến đâu, nhưng sẽ rất khó để thoát
ra khỏi vòng xoáy nợ nần này. Thế nhưng, Trung Quốc đã quyết định không thực hiện
chính sách nới lỏng định lượng [chính sách tiền tệ theo đó ngân hàng trung ương
mua lại một lượng lớn nợ công hoặc các tài sản tài chính khác để bơm tiền vào nền
kinh tế, giảm lãi suất và kích thích tăng trưởng, BBT]. Vì vậy, ta có đến hai
cách tiếp cận về chính sách tiền tệ: cách thứ nhất là dựa trên nợ và tạo sinh
tiền tệ, cách thứ hai là dựa trên các công cụ cổ điển hơn. Đây là một hình thái
đứt gãy giữa các phương thức cung cấp tài chính, mà từ nay sẽ chia tách phương
Tây với một phần châu Á. Chúng ta không biết cuộc đối đầu giữa các cách tiếp cận
này sẽ mang lại kết quả gì trong 5 đến 10 năm nữa. Hơn nữa, Trung Quốc đang khởi
động, một cách rất tích cực, việc phát triển một loại tiền kỹ thuật số, mà một
trong các mục tiêu là không sử dụng đồng US$ trong các giao dịch quốc tế.
*
Xin quay lại vấn đề cụ thể hơn
về sự mất cân bằng giữa châu Á và phần còn lại của thế giới mà sự chuyển hướng
phát sinh từ đại dịch sẽ làm tăng tốc, như ông đã viết. Đó là những gì?
Hubert Testard: Yếu tố thứ nhất là
điều hiển nhiên: sự ứng phó nhanh với đại dịch. Chúng ta có một nhóm các nước
Đông Á với nhiều phương pháp [ứng phó đại dịch] khác nhau, tất nhiên, một bên
là Trung Quốc rất chuyên quyền và một bên là Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan.
Nhưng tất cả các nước đó đều biết cách ứng phó rất nhanh. Con số tử vong trên đầu
người ở các nước đó thấp hơn từ một trăm đến hai trăm lần so với ở phương Tây.
Các nước đó đã biết thể hiện sự nhanh nhạy đáng kể khi đối mặt với một sự kiện
chưa từng có. Họ, chắc chắn, đã có kinh nghiệm trước đây từ Hội chứng hô hấp cấp
tính nặng (SARS) và các dạng đại dịch khác. Tuy nhiên, phản ứng của họ cực kỳ
nhanh. Ngay từ ngày 31 tháng 12 năm 2019, Đài Loan đã cảnh báo WHO về một trường
hợp lây nhiễm đáng lo ngại đang diễn ra ở Vũ Hán, và ngay từ ngày 2 tháng 1, họ
đã thiết lập một cơ chế kiểm soát các máy bay đến từ Trung Quốc. Trong khi
chúng ta, ở Pháp và châu Âu, chúng ta không hiểu điều gì đang chờ chúng ta cho
đến tận cuối tháng 2 năm 2020.
Yếu
tố thứ hai là sự thiếu vắng các biện pháp nửa vời. Các nước nói trên đã hành động
một cách rất kiên quyết, không có các cuộc tranh luận nội bộ lớn, không giống
như ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Điều đó không có nghĩa là người châu Á là những người
dễ bảo. Nhưng đó là những nước có nền văn hóa dựa trên giá trị của sự cấp bách
và cộng đồng mạnh hơn ở Châu Âu. Nhật Bản là một trường hợp ngoại lệ, vì đã
không thực hiện những biện pháp [ứng phó đại dịch] tương tự như các nước khác,
vì về mặt pháp lý chính quyền trung ương không thể áp đặt việc phong tỏa – mà
đó là quyết định của các chính quyền địa phương. Nhưng Nhật Bản là một đất nước
có nền văn hóa dựa trên giá trị của sự giãn cách và thực tiễn ứng phó đại dịch
rất mạnh, với thói quen bảo vệ bản thân và người xung quanh.
Yếu
tố thứ ba là sự nhanh nhạy trong ứng dụng kỹ thuật số. Hàn Quốc, Trung Quốc và
Đài Loan đã triển khai rất nhanh các ứng dụng kỹ thuật số để đối phó với tình
hình. Trong ba tuần, một tháng, tất cả các loại ứng dụng đã hội tụ lại
với nhau và giúp người dân biết được nguy cơ lây nhiễm hoặc các ổ lây nhiễm nằm
ở đâu để tránh. Tương tự, các xét nghiệm đã được xác lập và nhanh chóng sẵn
có cho công chúng. Phản ứng thông qua ứng dụng công nghệ được tiến hành nhanh
hơn và hiệu quả hơn rất nhiều ở Đông Á so với phương Tây. Khi đại dịch nhanh
chóng được kiềm chế, thì hậu quả kinh tế thiệt hại ít hơn và công cuộc phục hồi
kinh tế diễn ra nhanh hơn. Chúng ta đã thấy xu hướng tăng trưởng ở Đài Loan,
Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam, vào cuối năm 2020, một xu hướng không thấy ở
Châu Âu và Bắc Mỹ. Tất nhiên ngày nay, phần còn lại của thế giới, và đặc biệt
là Hoa Kỳ, cũng đang bước vào giai đoạn phục hồi nền kinh tế. Nhưng châu Á đang
đi trước một bước, trong đó có sự bùng nổ kỹ thuật số. Họ đã thử nghiệm, trên
quy mô lớn, rất nhiều giải pháp – thương mại điện tử, giáo dục từ xa hoặc chăm
sóc y tế từ xa – và sẽ tiếp tục đà phát triển này. Việc có ở lại cuộc đua hay
không là tùy thuộc vào chúng ta.
*
Trong số những cú sốc khác của
đại dịch, ông nhấn mạnh đến khía cạnh xã hội, đặc biệt là sự quay trở lại tình
trạng nghèo đói cùng cực của người tị nạn và lao động nhập cư ở các nước Nam Á…
Hoàn cảnh của họ ra sao?
Hubert Testard: Theo Ngân
hàng Thế giới, 4/5 người châu Á nghèo mới đều ở Nam Á. Khi triển
khai các biện pháp phong tỏa, đặc biệt ở Ấn Độ, chính phủ đã ra quyết định một
cách độc đoán và không thông báo trước. Vì thế đã gây ra một sự hỗn loạn chung.
Những người lao động phi chính thức sống trong các khu ổ chuột ở các thành phố
lớn của Ấn Độ và có nguyên quán từ nông thôn, phải tìm đường về làng của họ và
bị lây nhiễm lẫn nhau. Điều cần biết là ở Ấn Độ, hơn 70% việc làm đều là phi
chính thức. Một sớm một chiều, những người lao động đó bị mất việc và nguồn lực,
và sống phụ thuộc vào hàng viện trợ lương thực. Sau khi gỡ bỏ các biện pháp
phong tỏa, một số người đã tìm lại được việc làm, nhưng Ấn Độ đã mất một năm
nguồn cung việc làm cho 12 triệu thanh niên, vốn tham gia thị trường lao động mỗi
năm. Nạn nghèo đói đã tăng vọt, với mức thu nhập trung bình từ lao động bị mất
lên đến 17% vào năm 2020, theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).
*
Để chống lại tác động xã hội của coronavirus và
tạo lập, như ông đã khuyến nghị, một “khế ước xã hội mới”, ý tưởng về một thu
nhập phổ quát đang quay trở lại một cách mạnh mẽ. Liệu các nước Châu Á có nghĩ
đến điều đó hay không?
Hubert Testard: Chúng ta nói nhiều
đến “thu
nhập cơ bản” (basic income), một khái niệm gần với
khái niệm thu nhập phổ quát (universal income), nhưng chỉ giới hạn cho các nhóm
dân cư nghèo nhất. Ngân hàng Thế giới đã thúc đẩy các chương trình chuyển nhượng
tài chính có điều kiện trong mười năm qua, ví dụ như ở Philippines, nơi có 25
triệu người được hưởng lợi từ các chương trình này. Đây là khoản trợ cấp với
hai điều kiện: con cái phải đi học và gia đình phải đi khám y tế một lần trong
năm. Các chương trình này cũng đã được phát triển rộng rãi ở Indonesia. Vì vậy,
chúng ta không cách xa lắm với khái niệm thu nhập cơ bản. Một số quan chức Liên
hợp quốc cho rằng cần phải tiến xa hơn nữa và triển khai khái niệm thu nhập cơ
bản không có điều kiện cho các hộ gia đình nghèo.
Narendra Modi (1950-)
Sri Mulyani Indrawati (1962-)
Ở Ấn
Độ, ngay từ năm 2010, bang Madhya Pradesh đã thử nghiệm chính sách thu nhập cơ
bản cho nông dân. Vào năm 2016, Bộ Tài chính Ấn Độ đã công bố một báo cáo chi
tiết, phân tích các mức chi phí và tác động của một chính sách như thế trên
toàn quốc, nhưng [Thủ tướng] Narendra Modi đã không triển khai dự án này. Ở
Indonesia, Sri Mulyani Indrawati, cựu Bộ trưởng Tài chính và sau này là Thống đốc
Ngân hàng Trung ương, đã bày tỏ sự ủng hộ đối với thu nhập cơ bản khi nhấn mạnh
đến những rủi ro khi phổ cập hóa các công nghệ mới. Trong thời gian bùng phát đại
dịch, nhiều quốc gia châu Á, như Ấn Độ và Campuchia, đã chi những khoản tiền tạm
thời trực tiếp cho người nghèo của nước họ. Các cuộc tranh luận về khái niệm
thu nhập cơ bản vẫn sẽ tiếp tục diễn ra ở nhiều quốc gia châu Á khác.
*
Trung Quốc đã thành công trong
việc phục hồi nền kinh tế của họ một cách nhanh chóng sau khi gỡ bỏ phong tỏa
vào mùa xuân năm 2020. Nhưng đánh giá sự phục hồi này như thế nào?
Hubert Testard: Sự phục hồi kinh tế
này là có thật và, nghiêm túc mà nói, không thể nghi ngờ điều đó. Ví dụ, các dữ
liệu về ngoại thương của Trung Quốc đã được các nước thứ ba xác minh. Điều này
cũng đúng đối với giá năng lượng và nguyên liệu thô, mà việc tăng giá đó gắn với
sự tăng cầu của Trung Quốc, vào mùa thu năm 2020. Những nghi ngờ về số liệu
cũng liên quan đến quy mô của đại dịch ở Trung Quốc. Các con số đó đã được chứng
thực ngay từ đầu, nhưng chúng ta đều biết chúng thấp hơn rất nhiều ở Vũ Hán
trong giai đoạn đầu của đại dịch. Nhưng sau đó, chúng đã trở nên đáng tin hơn.
Một ví dụ: các công ty dược phẩm Trung Quốc đã phải thực hiện các cuộc xét nghiệm
lâm sàng giai đoạn ba ở nước ngoài, vì ở Trung Quốc không có đủ số người nhiễm
bệnh để thực hiện việc đó.
*
Giải thích chiến lược tăng trưởng
mới của Trung Quốc như thế nào? Có vẻ như chính phủ Trung Quốc không còn đặt ra
những mục tiêu cụ thể hàng năm...
Hubert Testard: Lần đầu tiên đã
không có những mục tiêu cho năm 2020. Với năm 2021, mục tiêu tăng
trưởng kinh tế được đặt ra là ít nhất 6% tại phiên họp của quốc hội vào mùa
xuân. Chính phủ Trung Quốc tin rằng cần phải đặt ra một mục tiêu định lượng,
nhưng ở mức thận trọng, bởi tất cả các định chế quốc tế (IMF, OECD hoặc Ngân hàng
Thế giới) đã đưa ra mức tăng trưởng của Trung Quốc là 8% vào năm 2021. Nhưng mục
tiêu tăng trưởng này không còn là yếu tố trung tâm để huy động toàn bộ các lực
trong nước, đặc biệt là các lực của Đảng Cộng sản. Từ giờ, trọng tâm theo hướng
định tính nhiều hơn là định lượng. Trong dự báo của chính phủ cho năm 2035, mức
tăng trưởng trung bình của kinh tế Trung Quốc được
dự kiến là 4,7% mỗi năm, phản ánh khá rõ mức giảm dần tốc độ tăng trưởng được
chính quyền Trung Quốc dự kiến. Khi Trung Quốc muốn chống lại cuộc khủng hoảng
tài chính năm 2008 bằng cách đầu tư một cách cuồng nhiệt, họ đã thu được những
kết quả khả quan về tăng trưởng, nhưng đã phải trả một cái giá rất đắt về môi
trường và nợ của đất nước. Do đó, lần này chính phủ đã thay đổi theo hướng tăng
trưởng vừa phải hơn, với mong muốn sẽ mang tính bền vững hơn và tạo ra nợ ít
hơn.
*
Trong số các chiến lược của
Trung Quốc để thoát khỏi cuộc khủng hoảng y tế và vươn lên mạnh mẽ hơn về mặt
kinh tế, Tập Cận Bình đang thúc đẩy lý thuyết “tuần
hoàn kép” tập
trung mạnh vào thị trường nội địa. Liệu chiến lược này có nguy cơ đưa Trung Quốc
tự giam mình trên con đường huyễn hoặc tự cung tự cấp, một kiểu chủ nghĩa phiêu
lưu tách rời các thực tế của giao dịch thương mại quốc tế?
Hubert Testard: Chúng ta có thể tự
đặt ra câu hỏi đó, vì nguy cơ chệch đường sẽ xảy ra nếu lý thuyết này được áp dụng
theo đúng nghĩa. Nhưng lý thuyết này dựa trên một thực tế: kim ngạch xuất khẩu
của Trung Quốc chiếm 36% GDP vào năm 2006, và chỉ còn chiếm 18% vào năm 2019,
giảm đi một nửa. Cuộc chiến thương mại với Hoa Kỳ đã làm tăng thêm rủi ro cho
triển vọng xuất khẩu của nước này. Ngoài ra, cầu trong nước đã tăng gấp đôi
trong vòng chưa đầy mười năm: ngày nay đó là động cơ chính của nền kinh tế
Trung Quốc. Khi xem xét mối quan hệ với phần còn lại của thế giới, hiện tại,
không có bất kỳ chỉ báo nào cho thấy có một sự chệch hướng sang con đường tự
cung tự cấp. Năm 2020, Trung Quốc là nước đứng đầu trong việc tiếp nhận nguồn đầu tư trực
tiếp nước ngoài với mức kỷ lục là 163 tỷ US$, bỏ xa Hoa Kỳ. Họ đang theo đuổi
chính sách tự do hóa các nguồn đầu tư, và vào cuối năm 2020, đã chấp nhận ký kết
một thỏa thuận quan trọng với Liên minh châu Âu trong lĩnh vực này. Các nguồn đầu
tư tài chính của Mỹ vào Trung Quốc chưa bao giờ nhiều như lúc này. Người Trung
Quốc không hề đóng cửa thị trường của họ. Chiến lược của họ phản ánh sự cần thiết
dựa vào vectơ chính là cầu trong nước. Nhưng ở giai đoạn này, vấn đề không phải
là đóng cửa đất nước để áp dụng chính sách tự cung tự cấp, như Triều Tiên đang
làm.
*
Mặc dù vậy, sức tiêu dùng nội
địa ở Trung Quốc vẫn còn rất xa mới đáp ứng các mục tiêu định hướng lại nền
kinh tế của Trung Quốc. Tại sao người Trung Quốc chưa tiêu dùng giống như người
Mỹ?
Hubert Testard: Đây là điểm yếu của
giới lãnh đạo Trung Quốc, những người nói nhiều về việc tái tập trung vào thị
trường nội địa và tiêu dùng, nhưng không có biện pháp mạnh để làm cho quá trình
chuyển đổi này thành công. Họ vẫn ưu tiên cho đầu tư, điều này dễ dàn xếp hơn bằng
cách dựa vào các doanh nghiệp nhà nước. Trái với Hoa Kỳ, vốn tập trung vào hai
kế hoạch phục hồi kinh tế hàng đầu dựa vào tiêu dùng, Trung Quốc tiến hành việc
phục hồi kinh tế thông qua cung, trợ cấp cho các doanh nghiệp, đầu tư vào các
cơ sở hạ tầng tương lai như trí
tuệ nhân tạo, các trung tâm kỹ thuật số, 5G hoặc các sản phẩm bán dẫn. Kết
quả: tiền vào túi người Trung Quốc ít hơn, khiến sức tiêu dùng bị chậm lại. Do
chế độ bảo hiểm xã hội ở mức tương đối hạn chế, nên tỷ lệ tiết kiệm ở Trung Quốc
là 35%, so với 15% ở Pháp trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng hiện nay. Đó gần
như là tỷ lệ cao nhất trên thế giới. Các quy định hiện hành cũng góp phần gây bất
lợi cho các hộ gia đình. Ví dụ, các quy định của Trung Quốc về lãi suất cho vay
và đi vay có lợi cho các ngân hàng nhưng lại bất lợi cho người tiết kiệm. Người
nông dân Trung Quốc thu được rất ít từ đất đai của họ trong các vụ chính quyền
địa phương trưng dụng đất đai rồi đem bán lại với giá rất cao cho các nhà phát
triển bất động sản. Có rất nhiều thực tiễn làm chậm đà tăng trưởng thu nhập và
tiêu dùng.
*
Cuộc chiến thương mại và công
nghệ Trung-Mỹ đã leo thang song song – hoặc vì lý do – khủng hoảng y tế. Đối mặt
với sự tách biệt công nghệ do chính phủ Mỹ dưới thời Donald Trump khởi xướng, đặc
biệt xung quanh lệnh cấm Huawei liên quan đến mạng 5G, Trung Quốc có thể giải
quyết vấn đề này như thế nào, vốn phụ thuộc nhiều vào các chip điện tử được sản
xuất ở nước ngoài?
Hubert Testard: Về các sản phẩm bán
dẫn, điều này sẽ rất khó vì Trung Quốc chỉ sản xuất 16% các sản phẩm mà họ tiêu
thụ và phụ thuộc 84% vào phần còn lại của thế giới. SMIC, công ty dẫn đầu về
chip điện tử của Trung Quốc, tụt hậu về công nghệ từ 4 đến 5 năm so với công ty
TSMC của Đài Loan. Sự tụt hậu này sẽ không thể được khắc phục trong một sớm một
chiều. Trung Quốc không sản xuất các thiết bị then chốt để chế tạo các sản phẩm
bán dẫn. Đặc biệt là thiết bị ghi khắc có độ chính xác rất cao để chế tạo những
chip điện tử hiệu quả nhất, đều được công ty ASML của Hà Lan sản xuất. Trung Quốc
đang đầu tư rất nhiều, họ tuyển các kỹ sư từ Đài Loan, Hàn Quốc và nhiều nước
khác, nhưng họ sẽ vẫn trải qua nhiều năm tháng khó khăn. Cuộc chiến công nghệ
này sẽ khiến Trung Quốc phải trả giá đắt.
*
Mặt khác, liệu việc Hoa Kỳ muốn
tách khỏi Trung Quốc có thực tế hay không?
Hubert Testard: Đó cũng là một cái
giá rất đắt đối với người Mỹ. Một báo cáo gần đây của AmCham, Phòng Thương mại
của Mỹ ở Trung Quốc, đã phân tích cái giá phải trả của việc tách khỏi Trung Quốc:
hàng trăm tỷ US$ thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ về giao dịch thương mại, trao đổi
nhân lực và các nguồn đầu tư. Ví dụ, hãy nhớ rằng Hoa Kỳ đang có 370.000 sinh
viên Trung Quốc trên đất nước họ, điều này mang lại 14 tỷ US$ cho các trường đại
học Mỹ. Theo AmCham, khoản thu nhập này có thể bị giảm một nửa. Ngoài ra, các
khoản tiền bản quyền liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ đến từ Trung Quốc cũng
rất đáng kể. Đây không phải là một trò chơi mà Hoa Kỳ tất yếu sẽ thắng. Trong mọi
trường hợp, điều đó sẽ gây tốn kém cho cả hai nước và cho cả các nước khác: những
rào cản mà Hoa Kỳ đã triển khai trong việc tái xuất các linh kiện của Mỹ sang
Trung Quốc đang ảnh hưởng đặc biệt đến Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Do các
chi phí tiềm ẩn tăng cao đó, nên sẽ phải tính đến việc lựa chọn có chọn lọc [những
sản phẩm bị cấm]. Ví dụ, trong lĩnh vực hàng không, Mỹ chiếm 45% thị phần ở
Trung Quốc: việc ngừng xuất khẩu sang nước này sẽ là một cái giá cực kỳ rất đắt
đối với ngành hàng không của Mỹ. Đó không phải là một lựa chọn được xem xét.
*
Trong thế giới đang chuyển hướng
vì đại dịch này, vị thế của Châu Âu ở đâu giữa Washington và Bắc Kinh?
Hubert Testard: Tự thân châu Âu
cũng đã có những thất vọng riêng của họ với Trung Quốc. Đặc biệt, việc ngành
công nghiệp nặng Trung Quốc bán phá giá trên thị trường châu Âu đã ảnh hưởng rất
lớn đến ngành luyện thép và sản xuất hóa chất của chúng ta. Một số thương vụ
người Trung Quốc mua lại các công ty châu Âu trong các lĩnh vực chiến lược đã bị
chất vấn. Trung Quốc là đối thủ chiến lược của châu Âu, nhưng chúng ta đối đầu
trực diện ít hơn trong lĩnh vực công nghệ cao. Vả lại, Châu Âu thành công nhiều
hơn ở Trung Quốc so với Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu của châu Âu cao gấp đôi so
với kim ngạch xuất khẩu của Hoa Kỳ sang thị trường Trung Quốc. Và các sản phẩm
xuất khẩu cũng đa dạng hơn: khi người Mỹ tập trung vào ngành công nghệ cao và
hàng không, thì người châu Âu cũng bán các máy công cụ, ô tô, hóa chất, hàng
tiêu dùng. Châu Âu thậm chí còn xuất khẩu sản phẩm trong lĩnh vực y tế: trái với
ý kiến của nhiều người, lượng dược phẩm của chúng ta xuất sang Trung Quốc lớn gấp
20 lần lượng dược phẩm của Trung Quốc xuất sang châu Âu.
Người
châu Âu cần phát triển các nguồn đầu tư vào Trung Quốc, vốn phải hứng chịu nhiều
rào cản, điều này biện minh cho thỏa thuận được ký kết vào cuối năm 2020. Để
phát triển trên thị trường Trung Quốc, thì phải có mặt ở đó. Việc đàm phán thỏa
thuận này đã tốn nhiều công sức và kéo dài trong bảy năm. Việc chờ đợi người Mỹ,
như Biden mong muốn, sẽ đồng nghĩa với việc hoãn lại các cuộc đàm phán một lần
nữa trong một thời gian không xác định, trong khi trong cuộc cạnh tranh
kinh tế toàn cầu, các lợi ích của châu Âu không trùng lặp với các lợi ích của
Hoa Kỳ. Dự thảo thỏa thuận đầu tư với Trung Quốc này hoàn toàn phù hợp với
logic “tự chủ chiến lược” mà Liên minh châu Âu đang tìm kiếm.
*
Raphaël Glucksmann (1979-)
Tuy nhiên, hiện tại phải chăng
có vấn đề thời gian biểu để Nghị viện châu Âu phê chu ẩn hiệp định này, trong khi các quan hệ đối kháng
giữa phương Tây và Trung Quốc đang gia tăng?
Hubert Testard: Thật vậy, mối quan
hệ với Trung Quốc đang ở mức thấp nhất, xuất hiện cùng với các lệnh trừng phạt
lẫn nhau vừa được thực hiện liên quan đến việc đàn áp người Duy Ngô Nhĩ ở tỉnh
Tân Cương, các lệnh trừng phạt liên quan đến một số nghị sĩ châu Âu, chẳng hạn
như Raphaël Glucksmann. Dự kiến sẽ có các cuộc tranh luận
về nội dung của thỏa thuận. Các điều khoản liên quan đến quyền con người – ví dụ
như lao động cưỡng bức và việc phê chuẩn các công ước của Tổ chức Lao động Quốc
tế (ILO) – còn yếu. Một phần các cam kết của Trung Quốc về việc từ bỏ việc chuyển
giao công nghệ cưỡng bức và về tính minh bạch của việc trợ cấp cho các doanh
nghiệp nhà nước, rõ ràng cần phải được xác minh theo thời gian. Việc của Nghị
viện châu Âu phải phê chuẩn [thỏa thuận] vào đầu năm 2022, khi Pháp nắm ghế chủ
tịch Nghị viện, một vài tháng hoặc một vài tuần trước các cuộc bầu cử ở Pháp.
Điều đó đủ để nói rằng mọi thứ sẽ mang tính chính trị rất cao, với một kết quả
mang tính bất định rất cao, nếu từ giờ đến đó Trung Quốc không cho thấy bất kỳ
thiện chí nào.
Qua
thách thức này, câu hỏi cơ bản được đặt ra là liệu chúng ta có khả năng phân biệt
các mối quan hệ của chúng ta với Trung Quốc hay không, giữa các lĩnh vực đối đầu
– nhân quyền và bất đồng địa chính trị – nơi chúng ta nhích gần với người Mỹ,
các lĩnh vực cạnh tranh, nơi lợi ích của chúng ta khác với lợi ích của Mỹ, và
các lĩnh vực hợp tác với Trung Quốc như y tế và khí hậu nói riêng. Về vấn đề [biến
đổi] khí hậu, lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu của Trung Quốc
chiếm một phần ba. Chúng ta phải làm việc với Trung Quốc. Ngay cả người Mỹ cũng
nghĩ về điều đó: Joe Biden muốn tổ chức một hội nghị thượng đỉnh về khí hậu, mà
Tập Cận Bình có thể tham gia. Trong lĩnh vực y tế, chúng ta cần người Trung Quốc
để thoát khỏi cuộc khủng hoảng Covid-19 và tiêm ngừa vắc-xin cho toàn thế giới.
Trung Quốc cũng đang tham gia sáng kiến COVAX
của WHO ủng hộ các nước đang phát triển đồng thời theo đuổi chính sách ngoại
giao vắc xin song phương của họ.
*
Ở châu Á-Thái Bình Dương, vị
thế của các nước trong khu vực đang ở thế kẹt với “cuộc chiến tranh lạnh mới”
Trung-Mỹ. Ông viết rằng họ không muốn chọn đứng hẳn về một bên. Ai hưởng lợi từ
cuộc đối đầu này trong khu vực? Liệu Trung Quốc có khả năng để áp đặt nhiều hơn
các tham vọng của họ lên các nước châu Á?
Hubert Testard: Tình hình chưa thể
giải quyết dứt điểm. Không có khối châu Á nào đứng sau Trung Quốc. Lấy ví dụ về
Huawei: gã khổng lồ Trung Quốc từng bị loại khỏi thị trường của Mỹ và châu Âu,
nhưng điều đó cũng không đạt được sự nhất trí ở châu Á. Cả Ấn Độ, Việt Nam, Singapore,
Indonesia đều chưa chọn Huawei để triển khai mạng 5G vào thời điểm này. Người
châu Á không hình thành một khối duy nhất để theo Trung Quốc và chọn nước đi rất
thận trọng. Họ có cùng logic về quyền tự chủ chiến lược như châu Âu và họ tạo dựng
các liên minh trên cơ sở từng trường hợp cụ thể, theo thứ tự các ưu tiên của họ.
Về cơ bản, Trung Quốc vẫn ở thế đơn độc, ngay cả khi họ kiểm soát một số nước
chư hầu như Lào hay Campuchia – cũng có thể là Miến Điện – hiện đang trong tình
thế lệ thuộc mạnh. Bắc Kinh cũng có một vài đồng minh truyền thống như
Pakistan. Nhưng người Trung Quốc chủ yếu vẫn tuân theo một logic đơn độc về quyền
bá chủ, thừa hưởng từ Đế chế Trung Hoa.
*
Một tham vọng khổng lồ khác của
Trung Quốc của Tập Cận Bình, dự án “Con
đường tơ lụa mới” dường
như đã lãnh đủ cú sốc đại dịch. Hiện giờ dự án đó ra sao? Tương lai của nó như
thế nào?
Hubert Testard: Đã có một số dấu hiệu
mệt mỏi của sáng kiến “Con đường tơ lụa mới” trước khi bùng phát virus corona,
ngay từ năm 2019. Người Trung Quốc đã triển khai rất nhiều dự án và bắt đầu
khoanh vùng những rủi ro nợ quá mức đối với các nước có liên quan, cũng như những
khó khăn trong việc thực hiện một số dự án. Đã có một cuộc tranh luận nội bộ ở
Trung Quốc về chủ đề này. Đại dịch đã góp phần tăng thêm một lớp dày bất ổn
khác. Đã có rất nhiều dự án bị tạm hoãn hoặc bị hủy bỏ. Một số quốc gia như
Pakistan, vốn có vấn đề nợ nghiêm trọng, thì nay càng trở nên trầm trọng hơn do
cuộc khủng hoảng. Khả năng họ theo đuổi các dự án lớn do Trung Quốc khởi xướng
là rất hạn chế. Trung Quốc cũng đang đối mặt với yêu cầu giãn nợ của một số nước
châu Phi. Họ sẽ thực hiện một cuộc đánh giá tổng thể các dự án của họ và tập
trung lại theo thứ tự các ưu tiên của họ. Vẫn còn hai lĩnh vực mà Trung Quốc
luôn ở thế tấn công: vắc xin và hệ thống chăm sóc y tế, cũng như các “con đường
tơ lụa kỹ thuật số”, những lãnh vực mà Trung Quốc đang cố áp đặt dần các chuẩn
mực của riêng họ. Ngược lại, Trung Quốc đang ở thế thủ liên quan đến khía cạnh
năng lượng của các “con đường tơ lụa”, lãnh vực mà 90% các nguồn đầu tư của
Trung Quốc liên quan đến nhiên liệu hóa thạch và đặc biệt là các nhà máy nhiệt
điện chạy bằng than. Nhìn chung, sáng kiến “Con đường tơ lụa mới” đã
hứng chịu một cú sốc, nhưng vẫn là một trong những trục mạnh trong chiến lược
quốc tế hóa của Trung Quốc.
***
Cuộc phỏng vấn do Joris
Zylberman thực hiện
.
ĐỌC THÊM Hubert
Testard, Pandémie, le basculement du monde [Đại dịch, sự chuyển hướng
của thế giới], NXB Éditions de l'Aube, 2021. |
.
Bìa cuốn sách, “Pandémie, le basculement du monde [Đại dịch, sự chuyển hướng
của thế giới]”, của tcgia Hubert Testard, NXB Éditions de l'Aube, 2021. (Nguồn:
Éditions
de l'Aube)
.
Giới thiệu tác giả
Joris
Zylberman là Giám đốc xuất bản và Tổng biên tập của Asialyst. Là cựu phóng viên
ở Bắc Kinh và Thượng Hải cho các đài RFI và France 24, đồng sáng lập công ty sản
xuất phim Actuasia, ông đã viết, chỉ đạo và sản xuất các bài phóng sự về Trung
Quốc trong 9 năm. Ông là đồng tác giả cuốn Nouveaux Communistes chinois
[Những người Cộng sản Trung Quốc mới] (Armand Colin, 2012) và là nhà đồng đạo
diễn bộ phim tài liệu “La Chine et nous: 50 ans de passion [Trung Quốc và chúng
ta: 50 năm đam mê]” (France 3, 2013).
.
Huỳnh Thiện Quốc Việt dịch
.
Nguồn: Livre:
“Pandémie, le basculement du monde” d'Hubert Testard ou l'accélération des
déséquilibres avec l'Asie, Asialyst, ngày 10/04/2021.
No comments:
Post a Comment