Không
gian và đại dương : Mặt trận mới về khai thác khoáng sản
Thùy
Dương -
RFI
Đăng ngày: 18/05/2021 - 11:21
Năm 2016, dự án táo bạo của các công ty Mỹ
Planetary Resources và Deep Space Industries về khai thác tài nguyên khoáng sản
trên các tiểu hành tinh đã gây tiếng vang truyền thông. Mặc dù mới xuất hiện,
nhưng các dự án này đã góp phần tạo ra tranh luận sôi nổi quanh đề tài khám phá
không gian và cách thức mà con người sử dụng không gian để phục vụ nền văn minh
nhân loại, đồng thời nêu bật một vấn đề trọng tâm : cuộc khủng hoảng tài
nguyên trên hành tinh của chúng ta.
(Ảnh minh họa) -
Các mẫu vật mà tàu thăm dò Hayabusa-2 của Nhật Bản thu thập được có thể cung cấp
thông tin về nguồn gốc của Hệ Mặt trời, đồng thời cho phép thăm dò các nguồn
tài nguyên khoáng sản tiềm năng trong không gian. ISAS-JAXA/AFP/File
Trên đây là nhận định của nhà nghiên cứu Viện
Quan Hệ Quốc Tế Pháp (IFRI) Florian Vidal, và giáo sư vật lý đại học
Paris José Halloy, trong bài viết « Từ không gian đến đại
dương, các biên giới khai khoáng mới » đăng trên trang mạng
nghiên cứu The Conversation ngày 09/05/2021.
Sự tăng tốc quá trình chuyển đổi sinh thái để
chống biến đổi khí hậu khiến nhu cầu khoáng sản tăng mạnh nhằm phục vụ các công
nghệ được cho là không carbon, cũng như để duy trì cơ sở hạ tầng sẵn có hoặc được
xây mới. Trong khi các dự án khai thác tài nguyên khoáng sản đang nhân rộng
trên Trái đất, nhiều « mặt trận mới » cũng đang được xem
xét.
Khai khoáng trong
không gian
Khi công ty khởi nghiệp Planetary Resources,
do Chris Lewicki điều hành, đặt chân vào lĩnh vực vũ trụ hồi đầu những năm
2010, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đã có nhiều tham vọng và hứa hẹn sẽ bước
sang một chặng mới trong công cuộc chinh phục không gian, với việc khai thác
khoáng sản trên các tiểu hành tinh.
Từ năm 2012, dự án này đã thu hút nhiều nhà đầu
tư tư nhân, bắt đầu từ Larry Page và Éric Schmidt, những người đứng đầu tập
đoàn Google, và cả nhà làm phim James Cameron. Sự hào hứng, nhiệt tình đối với
lĩnh vực khai khoáng trong không gian từ Mỹ đã vượt Đại Tây Dương, lan
sang Đại công quốc Luxembourg.
Ngoài việc điều chỉnh luật pháp quốc
gia cho phù hợp, ngành ngoại giao nước này cũng được huy động nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của lĩnh vực được chính quyền Luxembourg xem
là chiến lược. Vào mùa hè năm 2016, Nhà nước Luxembourg, thông qua Công ty quốc
gia về tín dụng và đầu tư (SNCI), đã chi 12 triệu euro để mua 10% cổ phần của
công ty Mỹ Planetary Resources.
Hai năm sau, quan hệ hợp tác thất bại : Khi
công ty Mỹ gặp khó khăn về tài chính, chính phủ Luxembourg đã bán cổ phần của họ
với giá tượng trưng. Thế nhưng, việc Luxembourg gia nhập dự án thăm dò khoáng sản
trong không gian đã tạo cho họ một vị thế quốc tế để kết nối các lĩnh vực đầu
tư và phát minh, sáng chế. Việc tham gia vào dự án Artemis của NASA nhằm đưa
con người trở lại mặt trăng cũng là phần tiếp nối trong chính sách của
Luxembourg về lĩnh vực này.
Sứ mệnh Hayabusa-2
Nhật Bản, một thành viên khác của dự án
Artemis, cũng quan tâm đến nghiên cứu khoa học về cấu tạo của các tiểu hành
tinh, một bước thăm dò các nguồn tài nguyên khoáng sản tiềm năng trong không
trung. Vào tháng 12/2020, tàu thăm dò không gian Hayabusa-2 của Nhật quay trở về
Trái đất sau sứ mệnh kéo dài 6 năm đi qua tiểu hành tinh Ryugu. Mục tiêu của sứ
mệnh khoa học này là chứng minh Ryugu có thể có các thành phần nguyên thủy của
hệ Mặt trời. Phi thuyền Hayabusa-2 đã lập kỳ công kỹ thuật, thu thập được 5,4
gr vật chất từ tiểu hành tinh Ryugu, với
chi phí 16,4 tỷ yen (126 triệu euro).
Tương tự, vào ngày 20/10/2020, Osiris-Rex, một
tàu thăm dò không gian của NASA, đã thực hiện sứ mệnh đáp sáu giây trên tiểu
hành tinh Bennu để thu thập mẫu bụi (regolith). Osiris-Rex dự kiến sẽ quay trở
về Trái đất vào năm 2023 với mẫu bụi thu thập được. Chi phí cho sứ mệnh này là khoảng 800 triệu đô la Mỹ
và khoảng 183,5 triệu đô la cho tên lửa phóng Atlas V.
Những ví dụ nói trên cho thấy các doanh nghiệp
phải chi những khoản tiền rất lớn cho các phi vụ thám hiểm không gian,
nhưng Mặt trăng hiện vẫn thu hút nhiều sự chú ý vì có nhiều tiềm năng khoáng sản
cho dù còn nhiều thách thức kỹ thuật.
Viễn cảnh dưới đáy
biển
Để đón đầu nhu cầu khoáng sản ngày càng tăng của
thế giới, khai khoáng dưới đáy biển thường được coi là một giải pháp do sự rộng
lớn của không gian này.
Trong số các quốc gia quan tâm đến khai khoáng
dưới đáy đại dương có Na Uy. Sau 3 năm thám hiểm đáy biển, biến quốc gia Bắc Âu
thành nước đi đầu trong ngành công nghiệp khai thác mới này, vào tháng 1/2021,
bộ Dầu Mỏ Và Năng Lượng Na Uy công bố khả năng ngay từ năm 2023 sẽ cấp giấy
phép khai thác cho các doanh nghiệp quan tâm, chẳng hạn công ty Nordic Ocean
Resources AS của tập đoàn Nordic Mining ASA, để khai thác vùng đáy biển sâu vốn
giàu quặng đồng, kẽm, cobalt, vàng và bạc. Theo nhiều ước tính, có tới 6,9 triệu
tấn đồng ở thềm lục địa Na Uy.
Nhật Bản cũng có các kế hoạch tương tự, với khả
năng bắt đầu khai thác đáy biển từ năm 2026. Còn tại Canada, công ty khởi nghiệp
DeepGreen, có trụ sở tại Vancouver, hồi năm 2019 đã thông báo huy động khoản tiền
đầu tư 150 triệu đô la Mỹ để bắt đầu thăm dò tìm kiếm tài nguyên khoáng sản ở một
phần của Thái Bình Dương. Đây là một dấu hiệu cho thấy niềm tin vào tương lai của
ngành này ngày càng tăng.
Tuy nhiên, việc khai thác phụ thuộc trước hết
vào giá kim loại trên thị trường và việc giảm chi phí khai thác trong môi trường
biển. Hậu quả của khai thác đối với hệ sinh thái biển cũng gây nhiều lo ngại :
các nhà khoa học cảnh báo không nên chuyển đổi quá nhanh từ thăm dò tìm kiếm
sang khai thác, do con người còn ít hiểu biết về môi trường dưới đại dương rộng
lớn và sự sống dưới đáy biển.
Tranh cãi về
những quy định
Do có những điều không chắc chắn, Cơ quan quản
lý đáy biển quốc tế (ISA) đã dành nhiều năm soạn thảo một bộ luật về khai
khoáng dưới đáy biển trong tương lai, một yếu tố không thể thiếu để giám sát
các hoạt động khai thác có thể được triển khai.
Cuộc tranh cãi về quy định cho các hoạt động
này đang diễn ra sôi nổi : Cơ quan quản lý đáy biển quốc tế khuyến nghị điều chỉnh
dần dần các quy định theo từng bước khi có các tác nhân tham gia khai khoáng ở
đáy biển. Nhưng nhiều người cho rằng sẽ rất khó sửa đổi các quy tắc ứng xử một
khi việc khai thác đã được khởi động.
Việc đặt ra quy định có tầm quan trọng sống
còn đối với việc khai thác đáy biển ở những vùng nước sâu, như vùng
Clarion-Clipperton (CCZ), kéo dài từ quần đảo Hawaii đến bán đảo Baja
California và nằm trên đường đứt gãy của Thái Bình Dương. Khu vực bao la này được
cho là có trữ lượng 247 triệu tấn nickel và 226 triệu tấn đồng. Tuy nhiên, nhiều
nghiên cứu chỉ ra rằng ẩn chứa trong những không gian này là sự đa dạng sinh học
độc nhất và mật độ của chúng được củng cố nhờ sự hiện diện của các nốt đa kim nằm
ở độ sâu 4-5 km.
Hai nhà nhiên cứu kết luận, dù ở đất liền
hay biển khơi, việc bảo tồn cân bằng sinh thái là một tiêu chí để cân nhắc các
dự án khai khoáng. Hoạt động khai thác đáy đại dương cho dù không bù đắp hết
cho các hoạt động diễn ra trên đất liền, nhưng là nguồn bổ sung cần thiết để
đáp ứng các nhu cầu trong tương lai. Thế nhưng, cũng như đối với không gian, những
sáng kiến khai khoáng dưới đáy dại dương đang đặt ra những vấn đề nan giải về việc khai
thác tài nguyên ở những vùng ngày càng xa xôi.
***
CÁC NỘI DUNG LIÊN
QUAN
Khoáng
sản: Vũ khí kinh tế lợi hại của Bắc Kinh
''Kim
loại hiếm'' : Hiểm họa với nhân loại thế kỷ 21
TQ
thống lĩnh công nghiệp thế giới nhờ kim loại hiếm
No comments:
Post a Comment