Quan
hệ Việt – Mỹ: Sức mạnh của niềm tin
RFA
2021-05-01
https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/us-vietnam-relationship-power-of-trust-05012021004805.html
Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, Hà Kim Ngọc, trong một buổi
nói chuyện trực tuyến gần đây với giảng viên và sinh viên Đại học Virginia, Hoa
Kỳ khẳng định rằng hầu như không có một lĩnh vực chiến lược quan trọng nào mà Mỹ
và Việt Nam không thể hợp tác. Trước đó, ông Daniel Kritenbrink, người đồng nhiệm
của ông tại Việt Nam cũng từng tuyên bố: Trong quan hệ Việt – Mỹ “chỉ có bầu trời
là giới hạn”. Vì sao hai vị đại sứ của hai quốc gia cựu thù lại có thể tự tin đến
vậy và phải chăng quan hệ giữa hai nước đã hết trở ngại?
Từ cây cầu đầu
tiên
Câu chuyện bắt đầu từ những nỗ lực tìm kiếm
quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến tại Việt Nam. Mặc dù Cơ quan Việt
Nam về Tìm kiếm Người mất tích (VNOSMB) được thành lập chỉ ít tháng sau khi Hiệp
định Paris được ký kết (1973) và Việt Nam chủ động tìm kiếm và trao hơn 300 bộ
hài cốt người Mỹ mất tích cho Chính phủ Hoa Kỳ trong giai đoạn 1973-1988 nhưng
những nỗ lực tìm kiếm chung giữa hai nước chỉ thực sự bắt đầu với quy mô nhỏ từ
tháng 9/1988.
Theo ông Tim Rieser, trợ lý cao cấp về chính
sách đối ngoại của Thượng nghị sĩ Patrick Leahy, tại một cuộc hội thảo về giải
quyết di sản chiến tranh giữa Việt Nam và Mỹ tổ chức tháng 7/2020, đã có những
khoảng thời gian vô cùng khó khăn để nói về câu chuyện tìm kiếm người Mỹ mất
tích ở cả hai nước do hai bên còn thiếu niềm tin và hiểu biết lẫn nhau. Thượng
nghị sĩ Leahy, người được xem là một trong những nhân vật có đóng góp
quan trọng nhất của phía Hoa Kỳ cho vấn đề khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt
Nam đã có “những cuộc gặp không thể kể hết” với các quan chức Chính phủ Hà
Nội cũng như quan chức Chính phủ Washington trong nhiều năm để có thể thay đổi
cách nói chuyện của hai bên và đưa “những vấn đề của sự giận dữ và phẫn nộ” trở
thành những vấn đề mà hai bên có thể hợp tác và giải quyết.
Đại sứ Hà Kim Ngọc, trong buổi nói chuyện trực
tuyến do Đại học Virgina tổ chức ngày 8/4/2021 cũng nói rằng cho tới đầu những
năm 1990, vẫn còn có những người Mỹ cho rằng Việt Nam còn giam giữ tù nhân Mỹ
và điều này đã làm chậm lại quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước mất
một vài năm. Tuy nhiên, những nỗ lực không mệt mỏi của những người như Thượng
nghị sĩ Leahy, Thượng nghị sĩ John Kerry, thượng nghị sĩ John McCain, đã giúp cả
hai phía “vượt qua giới hạn của chính mình” để tiếp cận và làm việc với phía
bên kia.
Theo thống kê của Chính phủ Việt Nam đưa ra tại
Hội thảo về Quan hệ Việt-Mỹ và vấn đề di sản chiến tranh diễn ra vào 7/2020,
trong giai đoạn từ giữa năm 1988-2020, Việt Nam và Mỹ đã tiến hành hơn 130 đợt
hoạt động chung, hồi hương gần 1.000 bộ hài cốt liên quan đến MIA, qua đó phía
Hoa Kỳ đã nhận dạng được khoảng 730 trường hợp. Theo Đại sứ Hà Kim Ngọc, chính
những kết quả “hữu hình” này và sự đồng cam cộng khổ, thậm chí cả sự hy sinh của
cán bộ tìm kiếm hai nước đã giúp Mỹ và Việt Nam bồi đắp niềm tin và mở rộng hợp
tác sang các vấn đề di sản chiến tranh khác cũng như sang các lĩnh vực hợp tác
khác.
Một buổi lễ đưa hài
cốt quân nhân Mỹ về nước tại Đà Nẵng ngày 15/4/2018. Ảnh: AFP
“Đáng lưu ý rằng hoạt động tìm kiếm người Mỹ
mất tích đã mở đường cho quá trình bình thường hóa sau đó. Và rồi nước Mỹ đã
giúp chúng tôi hỗ trợ những nạn nhân chiến tranh ở Việt Nam, rà phá bom mìn, tẩy
rửa dioxin ở sân bay Đà Nẵng và hiện nay là tẩy rửa sân bay Biên Hòa. Và gần
đây nhất, phía Mỹ đã tăng cường việc hỗ trợ tìm kiếm hài cốt của quân nhân Việt
Nam” – ông Ngọc nói và nhấn mạnh rằng hai nước Việt Nam và Mỹ hoàn
toàn có thể tự hào về những nỗ lực của mình. Ông cũng cho rằng câu chuyện thành
công trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh của hai nước, đưa hai nước trở
thành bạn bè và đối tác toàn diện của nhau không chỉ là hình mẫu về việc hòa giải
giữa hai cựu thù mà còn là một hình mẫu về giải pháp đối với nhiều cuộc xung đột
khu vực và quốc tế ngày nay.
Cựu Đại sứ Mỹ Daniel Kritenbrink, người vừa
hoàn thành nhiệm kỳ công tác của mình tại Việt Nam, cũng nhìn nhận rằng việc giải
quyết vấn đề di sản chiến tranh là cây cầu đầu tiên mang đến việc bình thường
hóa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam đồng thời là yếu tố nền tảng của quan hệ đối
tác toàn diện giữa hai nước ngày nay. Là Đại sứ Mỹ đầu tiên đến thăm và thắp
hương Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, nơi quy tập hơn 10.000 ngôi mộ của
liệt sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam và cũng đã từng đến thăm nghĩa trang
Biên Hòa, nơi chôn cất binh lính sỹ quan của Chính phủ Cộng hòa Việt Nam, ông
cho rằng hai nước cần tiếp tục giải quyết các vấn đề của quá khứ một cách có
trách nhiệm và đây chính là một con đường để hai nước hướng tới những hợp tác
sâu rộng hơn trong tương lai.
“Khi chúng ta tiếp tục xây dựng niềm tin chiến lược
bằng việc giải quyết những vấn đề của quá khứ, chúng ta mở ra những cánh cửa
cho các hoạt động hợp tác chiến lược lớn hơn trong tương lai” – ông khẳng định trong bài phát biểu của mình trong cùng hội thảo
nói trên.
Đại sứ Mỹ Daniel
Kritenbrink thắp hương tại Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn ngày
27/8/2019. Ảnh: Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội
Đến những thành
công trong hợp tác kinh tế
Là một trong những quốc gia bình thường hóa
quan hệ muộn nhất với Việt Nam nhưng trong nhiều năm gần đây, Mỹ liên tục giữ vị
trí là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt Nam. Nếu năm 1995, kim
ngạch xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ mới đạt 169,7 triệu USD thì đến năm 2020, con
số này đã lên tới 77 tỷ USD, tăng hơn 450 lần. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của
Mỹ sang Việt Nam cũng tăng từ mức 130,4 triệu USD lên 13,7 tỷ USD, tăng 105 lần.
Cũng trong năm 2020, Việt Nam đã trở thành đối
tác thương mại lớn thứ 10 của Mỹ và Mỹ tiếp tục là đối
tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam sau Trung Quốc.
“Kinh tế và thương mại là lĩnh vực hợp tác đạt kết
quả ấn tượng nhất trong quan hệ song phương Việt Mỹ” – Giáo sư Carl Thayer– một chuyên gia nghiên cứu Việt Nam lâu năm
tại Đại học New South Wales nhận định trong một cuộc phỏng vấn với RFA. Ông cho
rằng lĩnh vực này đã có được một sự phát triển ngoạn mục kể từ sau khi Hiệp định
thương mai song phương giữa hai nước có hiệu lực vào tháng 12/2001 đồng thời
cho rằng kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước dự kiến sẽ cán mốc 100 tỷ
USD trong năm nay, so với mức 90,8 tỷ USD của năm 2020.
Các nhà đàm phán Việt
- Mỹ vui mừng khi đạt được thỏa thuận về mặt nguyên tắc cho các điều khoản của
Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ - Hà Nội ngày 25/7/1999. Ảnh AFP
Tuy nhiên nhà nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng
việc gia tăng mạnh mẽ xuất khẩu của Việt Nam đã khiến cho thâm hụt thương mại của
Mỹ ngày càng lớn và điều này đang khiến cho giới chức có liên quan của hai nước
phải ngồi lại với nhau để giải quyết.
“Đã có những sự khó chịu và tranh cãi trong quan hệ
kinh tế, đặc biệt là dưới thời Chính quyền Trump” – ông Thayer nói và cho biết trong ngày 1/4/2021 vừa qua, trước
khi chính thức chuyển sang đảm trách cương vị Trưởng Ban Kinh tế Trung Ương, cựu
Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh đã có cuộc điện đàm với bà Katherine Tai, Đại
diện Thương mại mới của Mỹ và tại sự kiện này, người khi đó đứng đầu bộ phụ
trách thương mại của Việt Nam đã đưa ra cam kết “sẽ tích cực hợp tác toàn diện
để giải quyết các mối quan tâm [của Mỹ] để duy trì môi quan hệ thương mại hài
hòa, bền vững”.
Những trao đổi thẳng thắn, thực chất và hợp
tác như trong vấn đề thâm hụt thương mại nói trên được xem là diễn ra ngày một
thường xuyên hơn giữa hai nước. Liên quan tới cuộc điều tra thao túng tiền tệ của
Mỹ đối với Việt Nam vào cuối năm 2020– một vụ việc được xem là mối đe dọa lớn đối
với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam - Đại sứ Hà Kim Ngọc cho biết các cơ quan hữu
trách của Việt Nam, đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước, đã có hợp tác rất tích cực
với Bộ Tài chính và Cơ quan Đại diện Thương mại Mỹ trong quá trình điều tra
cũng như đã có một số điều chỉnh phù hợp trong chính sách tiền tệ của mình.
“Chúng tôi hoan nghênh quyết định đưa Việt
Nam ra khỏi danh sách các quốc gia thao túng tiền tệ và mặc dù không còn ở
trong danh sách này, chúng tôi hiểu rằng chúng ta vẫn còn một số vấn đề cần phải
cùng nhau xử lý” – ông nói tại cuộc một cuộc hội thảo về quan hệ Việt
Mỹ do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Mỹ (CSIS) tổ chức đầu tuần này
(27/4). Ông đồng thời khẳng định rằng với tinh thần hợp tác và đối tác, hai bên
hoàn toàn có thể cùng nhau hợp tác trong vấn đề này.
Quốc phòng - lĩnh
vực hợp tác được nhiều mong đợi
Khởi đầu từ hoạt động tìm kiếm quân nhân Mỹ mất
tích, hợp tác giữa hai lực lượng trực tiếp chiến đấu ở hai đầu chiến tuyến đã
phát triển trên nhiều lĩnh vực và đặc biệt được đẩy mạnh trong thập kỷ gần đây.
Những dấu mốc lớn của mối quan hệ này là việc Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận
vũ khí với Việt Nam vào năm 2016; Mỹ chuyển giao tàu tuần duyên Morgenthau cho
Cảnh sát Biển Việt Nam (2017) và dự kiến sẽ chuyển giao hai tàu còn lại trong
năm nay. Tháng 3/2018, nhóm tác chiến tàu sân bay USS Carl Vinson cập cảng Tiên
Sa, Đà Nẵng, đánh dấu lần đầu tiên một tàu sân bay Mỹ thăm Việt Nam trong hơn
40 năm. Tròn hai năm sau, tháng 3/2020, tàu sân bay USS Theodore Roosevelt của hải
quân Mỹ tiếp tục đến thăm Việt Nam. Ngoài ra, một hoạt động hợp tác đáng chú ý
khác là việc Mỹ hỗ trợ đào tào phi công quân sự cho Việt Nam, một chỉ dấu mới
trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước.
Nhóm tác chiến tàu
sân bay USS Carl Vinson cập cảng Tiên Sa, Đà Nẵng ngày 53/2018 đánh dấu lần đầu
tiên một tàu sân bay Mỹ thăm Việt Nam sau hơn 40 năm. Ảnh: AFP
Giới quan sát cho rằng quan hệ hợp tác quốc
phòng giữa Việt Nam và Mỹ được đẩy mạnh trong những năm gần đây có một phần tác
động không nhỏ từ việc gia tăng tham vọng và thái độ hung hăng của Trung Quốc
trong khu vực, đặc biệt là trên Biển Đông, ảnh hưởng đến lợi ích của cả Việt Nam
và Mỹ. Ở bên cạnh ông hàng xóm có những chuẩn bị quốc phòng lớn, luôn có tham vọng
bành trướng cùng thái độ thường xuyên o ép, Trung Quốc là nỗi ám ảnh và cũng là
sự đe dọa thường trực của Việt Nam – một quốc gia thua kém về tiềm lực nhiều mặt.
Sự hung hăng của Trung Quốc ở biển Đông được xem là đang “đẩy” Việt Nam về phía
Hoa Kỳ. Sự hiện diện thường xuyên hơn của quân đội Mỹ trong khu vực được trông
đợi vì sẽ giúp ngăn chặn các kế hoạch quân sự hóa và tranh chấp chủ quyền được
cho là phi pháp của Trung Quốc trong khu vực.
Cũng tại cuộc hội thảo do CSIS tổ chức trong
tuần này, Đại sứ Hà Kim Ngọc đã nhấn mạnh vai trò của Mỹ trong khu vực Ấn Độ
Dương – Thái Bình Dương, khẳng định Việt Nam tin tưởng những hợp tác mang tính
xây dựng và bền vững của Mỹ đóng giữ vai trò “không thể tách rời” đối
với hòa bình, an ninh, hợp tác và thịnh vượng trong khu vực. Ông đặc biệt bày tỏ
mong muốn Mỹ tiếp tục có những cam kết duy trì các hoạt động tự do hàng hải.
“Trong lĩnh vực hàng hải, Việt Nam và ASEAN
hoan nghênh Mỹ tiếp tục cam kết duy trì các nguyên tắc như tự do hàng hải và
hàng không, giải quyết toàn diện tranh chấp bằng luật pháp quốc tế, trong đó có
Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển ( UNCLOS 1982), đặc biệt là đối với những
diễn biến gần đây tại Đá Ba Đầu - một thực thể nằm trong vùng lãnh hải của đảo
Sinh Tồn Đông của Việt Nam tại Trường Sa” – ông Ngọc nói.
Về phần mình, tuy mới nhận nhiệm sở, nhưng
chính quyền của Tổng thống Biden đã xác định Việt Nam là một trong số các đối
tác được nhắm tới để “làm sâu sắc hơn” trong hợp tác an ninh khu vực và điều
này đã được thể hiện trong tài liệu Hướng
dẫn Tạm thời về Chiến lược An ninh quốc gia được Washington công bố
ngày 3/3 vừa qua. Không ít người trong chính giới Mỹ cho rằng Việt Nam là đối
tác quan trọng đồng thời cùng chia sẻ nhiều mối quan tâm và tầm nhìn trong vấn
đề an ninh khu vực với Mỹ.
“Có một khía cạnh chiến lược cho mối quan hệ. Mỹ coi
Việt Nam là một nước lãnh đạo chủ chốt trong khu vực. Không nghi ngờ gì việc Việt
Nam được đặc biệt tôn trọng trong khu vực” -
Ông Edgard Kagan – Giám đốc cấp cao khu vực Đông Á và Châu Đại dương, Hội đồng
An ninh Quốc gia Mỹ phát biểu.
Tàu tuần duyên
USCGC Morgenthau của Tuần duyên Mỹ được Mỹ chuyển giao cho Cảnh sát biển Việt
Nam ngày 25-5-2017 và được đổi tên thành CSB-8020. Ảnh: commons.wikimedia
Cựu đại sứ Mỹ trước khi rời Việt Nam để đảm
trách cương vị Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình
Dương - một cương vị ngoại giao cao nhất của Mỹ tại khu vực – đã phát biểu
trong một cuộc họp báo tại Hà Nội rằng ông rất lạc quan về tương lai quan hệ Việt
Nam và Mỹ vì hai nước cùng có một tầm nhìn chung.
“Tôi nghĩ chúng ta cùng chia sẻ tầm nhìn này gần như
giống hệt nhau. Ngôn ngữ chúng ta sử dụng để nói về khu vực mà chúng ta mong muốn
sống gần như giống hệt nhau” – ông nói và nhấn mạnh
cả hai nước đều muốn sống trong một khu vực hòa bình và thịnh vượng mà ở đó các
quốc gia vận hành theo luật pháp quốc tế, các nước lớn không bắt nạt các nước
nhỏ hơn, các quốc gia đều có thể trao đổi thương mại một cách tự do và tranh chấp
được giải quyết bằng con đường hòa bình.
Mặc dù có những lợi ích và mối quan tâm chung
nhưng mối nhân duyên quốc phòng giữa Mỹ và Việt Nam không dễ mà thành. Một số
nhà nghiên cứu cho rằng Trung Quốc vừa là động lực thúc đẩy đồng thời là lực cản
của mối nhân duyên này. Nếu Việt Nam đi quá xa trong mối quan hệ quốc phòng với
Mỹ, Trung Quốc sẽ tìm cách trả đũa và Trung Quốc có thể dễ dàng làm điều này
không chỉ bằng hành động quốc phòng mà còn bằng cả kinh tế vì nước này luôn là
đối tác thương mại lớn nhất, cung cấp một phần lớn nguyên liệu cho hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam trong nhiều năm qua. Ngoài ra, khó khăn còn đến từ việc Việt
Nam lựa chọn duy trì chính sách quốc phòng độc lập, không liên minh (nguyên tắc
4 không).
“Quy mô và nhịp độ hợp tác quốc phòng trong tương
lai của Việt Nam và Mỹ sẽ phụ thuộc vào những hành xử của Trung Quốc” – GS Carl Thayer nhận định. Theo ông, nếu Trung Quốc trở nên hung
hăng và hiếu chiến rõ rệt hơn ở Biển Đông, Việt Nam sẽ phải xem xét lại chính
sách quốc phòng hiện có của mình. Ông cũng cho rằng Việt Nam có thể điều chỉnh
chính sách của mình vì ngoài nguyên tắc “4 không”, Sách trắng Quốc phòng Việt
Nam 2019 cũng ghi rằng “tùy theo diễn biến của tình hình và trong những
điều kiện cụ thể”, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc
phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp với các quốc gia khác.
“Ở thời điểm hiện tại, hợp tác quốc phòng song
phương Việt – Mỹ nên tiếp tục quỹ đạo hiện tại với ưu tiên dành cho việc xây dựng
năng lực an ninh hàng hải và nhận thức về lĩnh vực hàng hải, đặc biệt là với Cảnh
sát biển và Hải quân Mỹ” – nhà nghiên cứu
này nhận định.
----------------
Tin, bài liên quan
·
Việt
Nam - Ấn Độ khánh thành trung tâm công nghệ thông tin quân đội
·
Việt
Nam kêu gọi Hoa Kỳ đầu tư vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao
·
Hoa
Kỳ trao tặng 100 máy thở và cam kết hỗ trợ 9,5 triệu USD cho Việt Nam chống
COVID-19
·
Lấy
ý kiến của người dân cho dự thảo văn kiện trình Đại hội 13
·
Chiến
hạm Pháp thăm thành phố Hồ Chí Minh
·
Việt
Nam và Campuchia cam kết thúc đẩy hợp tác quốc phòng
·
Xuống
đường cổ vũ bóng đá là cách để người dân giải tỏa tâm lý
·
Nói
trước, không phải lỗi tại tôi khi các anh chị bịt mũi đọc cái bài này
·
Việt
Nam – Australia ký Tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng
·
Tuyên
truyền bị phản tác dụng
No comments:
Post a Comment