Tác giả: Albert Einstein
Người
dịch: Phạm Hải Hồ
https://diendankhaiphong.org/chu-nghia-xa-hoi-vi-sao/
Lời
người dịch: Albert Einstein
(sinh năm 1879 tại Đức, mất 1955 tại Hoa Kỳ) được xem là một trong những nhà vật
lý lớn nhất từ trước tới nay. Công trình chính của ông, thuyết tương đối
(1905/1915), là xương sống của ngành vật lý hiện đại. Năm 1922, ông nhận Giải
Nobel vì những đóng góp quan trọng cho vật lý học lý thuyết, nhất là việc khám
phá định luật về hiệu ứng quang điện. Tháng 12-1932 ông sang Mỹ rồi không trở về
nước khi Đức Quốc xã giành chính quyền vào đầu năm sau.
Không những là một nhà khoa học vĩ đại, Einstein còn
hoạt động tích cực chống chiến tranh, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
quân phiệt. Trước nỗi khổ của dân tộc Do Thái, ông góp phần đáng kể vào việc
thành lập và xây dựng nước Israel.
Nhiều lần Einstein tự giới thiệu mình là người theo
chủ nghĩa xã hội. Nhưng ít ai biết đến bài báo “Why Socialism?” đăng trong số đầu
tiên của tạp chí Monthly Review của Mỹ (số tháng 5-1949). Trong đó, ông đề cập
đến những vấn đề của cả chế độ tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, khủng hoảng
kinh tế, nạn thất nghiệp v.v. vẫn tồn tại như cách đây 65 năm, nhưng ở các nước
tư bản phát triển, đời sống người dân được cải thiện đáng kể nhờ phúc lợi xã hội
và các quyền tự do dân chủ rộng rãi. Trong khi đó, những nước gọi là xã hội chủ
nghĩa thật ra lại có một nền kinh tế tư bản lạc hậu với một đảng lãnh đạo độc
tài và sự giới hạn tối đa các quyền con người và quyền công dân.
____________
Sự khác nhau giữa
khoa học và kinh tế [1]
Một người không phải là chuyên gia trong lĩnh
vực kinh tế – xã hội có nên bày tỏ quan điểm về chủ nghĩa xã hội hay không? Một
loạt lý do khiến tôi nghĩ rằng nên làm việc ấy.
Trước hết, chúng ta hãy xem xét vấn đề từ quan
điểm khoa học. Bề ngoài có vẻ như không có sự khác biệt đáng kể nào về phương
pháp giữa thiên văn học và kinh tế học: Các nhà khoa học thuộc hai ngành ấy đều
cố gắng khám phá những quy luật được chấp nhận rộng rãi cho một nhóm hiện tượng
để hiểu càng rõ càng tốt về mối liên kết giữa chúng với nhau. Tuy nhiên, trên
thực tế lại có những khác biệt về phương pháp. Việc khám phá những quy luật
chung trong lĩnh vực kinh tế gặp khó khăn, bởi vì các hiện tượng kinh tế chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố rất khó được đánh giá riêng biệt. Hơn nữa, như đã biết,
kinh nghiệm tích lũy từ đầu giai đoạn gọi là “văn minh” chủ yếu bị ảnh hưởng và
giới hạn bởi những vấn đề không chỉ có tính chất kinh tế. Chẳng hạn như đa số
các thực thể quốc gia lớn trong lịch sử đều tồn tại nhờ xâm lăng nước khác. Các
dân tộc xâm lược đã củng cố vị thế của mình ̶ về pháp lý và kinh tế ̶ là giai cấp có đặc quyền đặc lợi ở nước bị xâm chiếm. Họ nắm giữ độc quyền
sở hữu đất đai và cử những người từ tầng lớp của mình vào chức linh mục. Trong
vai trò quản lý hệ thống giáo dục, các linh mục đã thể chế hóa tình trạng phân
chia giai cấp của xã hội và tạo ra một hệ thống giá trị ảnh hưởng tới hành vi
xã hội của người dân mà những người này hầu như không nhận thức được điều đó.
Mặc dù truyền thống lịch sử ấy có thể nói là
thuộc về quá khứ nhưng chúng ta chưa thực sự vượt qua cái mà Thorstein
Veblen [2] gọi
là “giai đoạn cướp bóc” ở nơi nào cả. Các dữ kiện kinh tế quan sát được thuộc về
giai đoạn đó và cả những quy luật mà chúng ta có thể rút ra từ chúng cũng không
thể áp dụng cho những giai đoạn khác. Vì mục tiêu thực sự của chủ nghĩa xã hội
chính xác là để khắc phục và vượt qua giai đoạn nói trên, khoa học kinh tế hiện
nay chỉ có thể giúp chúng ta hiểu một ít về xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương
lai.
Lý do thứ hai là, chủ nghĩa xã hội hướng tới mục
tiêu đạo đức – xã hội. Nhưng khoa học lại không thể tạo ra những mục tiêu, nó
càng không thể gợi cho con người những mục tiêu ấy; trong trường hợp tốt nhất,
khoa học chỉ có thể cung cấp phương tiện để đạt tới những mục tiêu nào đó. Trái
lại, các mục tiêu lại được những nhân vật có lý tưởng đạo đức cao cả nghĩ ra
và ̶ nếu không chết non mà mạnh mẽ, đầy sức sống
̶ chúng sẽ được nhiều người tiếp nhận, phổ biến và
quyết định, tuy có phần không chủ ý, sự tiến hóa chậm rãi của xã hội.
Bởi những lý do ấy, chúng ta nên thận trọng,
không đánh giá quá cao khoa học và phương pháp khoa học khi xem xét các vấn đề
của con người; chúng ta không nên cho rằng chỉ các chuyên gia mới có quyền phát
biểu về những vấn đề liên quan đến tổ chức của xã hội.
Quan hệ giữa cá
nhân và xã hội
Từ lâu nay, vô số tiếng nói khẳng định rằng xã
hội loài người đang trải qua một cuộc khủng hoảng và sự ổn định xã hội bị phá hủy.
Đặc điểm của một tình trạng như thế là những cá nhân có thái độ bàng quan, thậm
chí đầy ác cảm đối với tập thể lớn hay nhỏ của họ. Để giải thích điều tôi muốn
nói, tôi xin kể một kinh nghiệm cá nhân. Cách đây không lâu, tôi thảo luận với
một người đàn ông thông minh và thân thiện về hiểm họa của một cuộc chiến tranh
mới mà theo tôi, nó đe dọa nghiêm trọng sự sống còn của nhân loại và chỉ một tổ
chức siêu quốc gia (a supra-national organization) mới có thể bảo đảm sự an
toàn trước hiểm họa ấy. Đáp lại, người khách của tôi ̶ rất bình thản, lãnh đạm ̶ nói: “Tại sao bạn hết sức chống lại sự biến mất của loài người như vậy?”
Tôi chắc rằng chỉ trước đây một thế kỷ thôi,
không ai có thể phát biểu một cách nông nổi như thế. Đó là phát biểu của một
người đã nỗ lực tìm sự thăng bằng nội tâm nhưng vô ích và đã mất ít nhiều hy vọng
thành công. Đó là biểu hiện của nỗi cô đơn, cách biệt khiến bao người phải đau
khổ trong lúc này. Đâu là nguyên nhân của nó? Có lối thoát nào không?
Không khó đặt ra những câu hỏi ấy, nhưng trả lời
chúng với một chút chắc chắn là điều khó khăn. Tuy vậy, tôi phải cố gắng hết sức,
mặc dù biết rõ những cảm nghĩ và nỗ lực của chúng ta thường trái ngược nhau và
khó hiểu vì không thể được diễn tả bằng những công thức đơn giản, dễ dàng.
Con người vừa là một cá thể vừa là thành viên
của xã hội. Là một cá thể, con người cố gắng bảo vệ sự sống của mình và người
thân cũng như tìm cách thỏa mãn nhu cầu cá nhân, phát triển năng khiếu bẩm sinh
của mình. Là thành viên xã hội, con người cố tìm sự tôn trọng và yêu mến của đồng
loại, chia sẻ niềm vui với họ, an ủi họ khi đau buồn và giúp họ cải thiện điều
kiện sống. Chỉ sự hiện hữu của các nỗ lực đa dạng, thường trái ngược nhau ấy mới
làm nên tính cách riêng của một người và sự kết hợp đặc thù của chúng quyết định
mức độ một cá nhân có thể đạt tới trạng thái cân bằng nội tại và góp phần giúp
ích cho xã hội. Hoàn toàn có thể là sức mạnh tương đối của hai động lực ấy chủ
yếu phụ thuộc vào di truyền. Nhưng rốt cuộc rồi nhân cách vẫn thường được tạo
nên bởi môi trường mà một người tình cờ lạc vào trong thời gian phát triển của
mình, bởi cấu trúc xã hội mà trong đó anh ta lớn lên, bởi các truyền thống và sự
phán đoán của xã hội về những hành vi khác nhau. Đối với con người cá thể, khái
niệm “xã hội” trừu tượng có nghĩa là toàn thể các mối quan hệ trực tiếp và gián
tiếp của người ấy với những người đồng thời và tất cả những người thuộc các thế
hệ trước. Con người cá thể có khả năng tư duy, cảm xúc, phấn đấu và làm việc độc
lập; nhưng trong đời sống thể chất, lý trí và tình cảm của mình, cá nhân phụ
thuộc vào xã hội đến nỗi không thể nào nghĩ đến và hiểu cá nhân bên ngoài
khung cảnh xã hội. Chính “xã hội” là cái đem lại cho con người quần áo, chỗ ở,
công cụ lao động, ngôn ngữ, các hình thức tư duy và đa số nội dung tư tưởng;
con người sống được là nhờ công sức và thành tựu của nhiều triệu người trong hiện
tại và quá khứ, tất cả đều ẩn sau cái từ nhỏ nhoi “xã hội”.
Vì thế, sự phụ thuộc của cá nhân vào xã hội là
một quy luật tự nhiên, một quy luật ̶ cũng như loài kiến và loài ong ̶ con người không thể xóa bỏ được. Tuy nhiên, trong khi cả quá trình sống của
các loài ong kiến bị ràng buộc cho tới từng chi tiết nhỏ bởi bản năng di truyền
bất biến, các mẫu hình xã hội và các mối quan hệ tương hỗ của con người dễ biến
đổi và nhạy cảm với sự đổi thay. Ký ức, khả năng tạo ra cái mới và năng khiếu
giao tiếp bằng lời nói là điều kiện cho con người có những phát triển không chịu
sự chi phối của các nhu cầu sinh học. Các phát triển như thế hiện rõ qua những
truyền thống, thiết chế và tổ chức; qua văn chương; qua những thành tựu khoa học
kỹ thuật; qua những tác phẩm nghệ thuật. Điều ấy giải thích vì sao con người,
trong một ý nghĩa nào đó, có thể tự tác động đến đời sống của mình và vì sao
trong quá trình này, tư duy và ý chí có thể giữ một vai trò.
Qua đường di truyền, con người khi sinh ra đã
có một cơ sở sinh học phải được xem là vững chắc, không thể thay đổi. Nó bao gồm
cả các bản năng tự nhiên vốn đặc trưng cho loài người. Ngoài ra, trong cuộc đời
mình con người còn tiếp nhận từ xã hội một nền tảng văn hóa qua việc giao tiếp
và nhiều loại ảnh hưởng khác. Chính cái nền tảng văn hóa ấy phải chịu thay đổi
theo thời gian và chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Với
những nghiên cứu đối chiếu các nền văn hóa gọi là “sơ khai”, ngành nhân chủng học
hiện đại chỉ rõ rằng hành vi xã hội của con người có thể rất khác nhau và tùy
thuộc vào những mẫu hình văn hóa, những cách thức tổ chức chiếm ưu thế trong xã
hội. Đây chính là điều mà những ai mong muốn thay đổi số phận con người có thể
đặt hy vọng vào: Không phải bởi nền tảng sinh học của mình mà con người buộc phải
tiêu diệt lẫn nhau hay cam chịu những điều bất hạnh do con người tự gây ra cho
mình.
Nếu chúng ta tự hỏi nên sửa đổi cơ cấu xã hội
và quan điểm về văn hóa như thế nào để con người càng hài lòng với đời sống của
mình càng tốt, thì chúng ta phải luôn luôn ý thức rằng có những hoàn cảnh không
thể nào thay đổi được. Như đã đề cập trước đây, trạng thái sinh học của con người,
trên thực tế, không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi. Hơn nữa, những phát triển
công nghệ và dân số học trong một vài thế kỷ gần đây đã tạo ra những điều kiện
vững bền. Với một mật độ dân số tương đối cao và những vật dụng không thể thiếu
cho sự tồn tại của họ, thì một sự phân công tối đa và một bộ máy sản xuất tập
trung cao độ là hết sức cần thiết. Thời kỳ mà những cá nhân riêng lẽ hay những
nhóm nhỏ có thể hoàn toàn tự cung tự cấp, thời kỳ có vẻ bình dị, yên ả khi hồi
tưởng ấy đã vĩnh viễn qua rồi. Chỉ hơi cường điệu nếu khẳng định rằng nhân loại
ngay bây giờ đã tạo thành một cộng đồng sản xuất và tiêu dùng toàn thế giới.
Bản chất cuộc khủng
hoảng trong thời đại chúng ta
Đến đây, tôi có thể trình bày ngắn về vấn đề đối
với tôi là bản chất cuộc khủng hoảng trong thời đại của chúng ta. Nó liên quan
đến mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Hơn bao giờ hết, con người nhận thức về
sự lệ thuộc của mình vào xã hội. Nhưng con người không trải nghiệm sự lệ thuộc ấy
như một điều tích cực, một quan hệ hữu cơ, một sức mạnh che chở mình, mà như một
mối đe dọa các quyền lợi tự nhiên hay ngay cả đời sống kinh tế của mình. Hơn nữa,
con người có một vị trí trong xã hội cho phép các bản năng ích kỷ luôn luôn được
nhấn mạnh, trong khi các bản năng xã hội vốn đã yếu thì ngày càng suy yếu hơn.
Tất cả mọi người ̶ cho dù họ có vị trí nào trong xã hội đi nữa ̶ đều cảm thấy khổ sở vì quá trình ấy. Vô tình bị trói buộc bởi tính tự kỉ
trung tâm, họ cảm thấy bất an, cô độc và mất đi niềm vui chân chất, giản dị và
tự nhiên. Con người chỉ có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống ngắn và đầy nguy hiểm
của mình qua sự cống hiến cho xã hội.
Theo quan điểm của tôi, tình trạng vô chính phủ
về mặt kinh tế hiện nay là nguồn gốc của sự tha hóa. Trước mắt chúng ta là một
cộng đồng sản xuất khổng lồ mà các thành viên không ngừng tìm cách tước đoạt lẫn
nhau các thành quả lao động tập thể ̶ không bằng bạo lực nhưng thường bằng sự nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ. Về
phương diện này, điều quan trọng là nhận thức rằng các phương tiện sản xuất
̶ tức là toàn bộ khả năng sản xuất cần thiết để
làm ra hàng tiêu dùng cũng như tư liệu sản xuất mới ̶ về mặt pháp lý có thể thuộc về tài sản cá nhân và đa số trường hợp
cũng là như thế.
Để đơn giản hóa, sau đây tôi sẽ gọi “công
nhân” là những người không sở hữu phương tiện sản xuất ̶ mặc dù đó không hẳn là nghĩa thông thường của từ “công nhân”. Chủ sở hữu
phương tiện sản xuất giữ một vị trí trong xã hội cho phép ông ta mua sức lao động
của công nhân. Với các phương tiện sản xuất, người công nhân làm ra những sản
phẩm mới và những sản phẩm này trở thành tài sản của nhà tư bản. Điểm chính yếu
trong quá trình ấy là tỉ lệ giữa giá trị thực mà người công nhân tạo ra và tiền
công anh ta thực sự nhận được. Nếu như hợp đồng lao động “để ngỏ”, tiền công của
người công nhân không được định bởi giá trị thực của sản phẩm mà bởi nhu cầu tối
thiểu của anh ta và yêu cầu về sức lao động của nhà tư bản so với số công nhân
cạnh tranh việc làm với nhau. Điều quan trọng là nên hiểu rằng ngay cả trong lý
thuyết, lương công nhân cũng chẳng được định bởi giá trị sản phẩm do anh ta làm
ra.
Tư bản tư nhân có khuynh hướng tập trung vào
tay một số ít người ̶ một phần do sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản, phần khác do phát triển
công nghệ và sự mở rộng phân công lao động đã thúc đẩy quá trình hình thành những
đơn vị sản xuất lớn, làm thiệt hại những đơn vị nhỏ hơn. Kết quả của những tiến
trình ấy là một tập đoàn tư bản đầu sỏ với quyền lực to lớn mà ngay cả một tổ
chức chính trị có cấu trúc dân chủ cũng không kiểm soát được. Thật vậy, các đại
biểu của cơ quan lập pháp được bầu bởi những đảng phái chủ yếu nhận tài trợ hoặc
ít nhất cũng chịu tác động của những nhà tư bản tư nhân, những người trên thực
tế tách biệt cử tri với ngành lập pháp. Hậu quả là các đại biểu nhân dân không
bảo vệ đầy đủ quyền lợi của các bộ phận dân chúng thiệt thòi về mặt xã hội. Hơn
nữa, trong điều kiện hiện hữu, tất nhiên các nhà tư bản kiểm soát trực tiếp hay
gián tiếp các phương tiện thông tin chính yếu (báo chí, đài phát thanh, hệ thống
giáo dục). Vì thế nên công dân khó có thể, trong đa số trường hợp gần như không
thể rút ra những kết luận khách quan và sử dụng các quyền chính trị của mình một
cách khôn ngoan.
Tình trạng phổ biến trong một nền kinh tế dựa
trên chế độ tư hữu về tư bản được mô tả bởi hai nguyên lý chính: thứ nhất, các
phương tiện sản xuất (tư bản) thuộc sở hữu tư nhân, chủ sở hữu được tùy nghi sử
dụng; thứ hai, hợp đồng lao động là hợp đồng để ngỏ. Dĩ nhiên không có xã hội
tư bản nào là thuần túy theo đúng nghĩa. Đặc biệt cần lưu ý rằng sau những cuộc
đấu tranh chính trị gay gắt và dai dẳng, công nhân đã thành công trong việc đảm
bảo một hình thức sửa đổi đôi chút của “hợp đồng lao động để ngỏ” cho một số bộ
phận công nhân nào đó. Nhưng nhìn chung, nền kinh tế hiện nay không khác gì chủ
nghĩa tư bản “thuần túy” cho lắm.
Sản xuất vì lợi nhuận, không vì lợi ích. Không
có một bảo đảm nào để những ai có khả năng và sẵn sàng làm việc đều có thể tìm
được việc làm; gần như lúc nào cũng có một “đạo quân thất nghiệp”. Người lao động
luôn luôn sợ mất việc làm. Vì những công nhân thất nghiệp và lương thấp không tạo
thành một thị trường mang lại lợi nhuận nên việc sản xuất hàng hóa bị giới hạn
và hậu quả là tình trạng nghèo khổ. Tiến bộ công nghệ thường khiến số người thất
nghiệp tăng thêm thay vì làm giảm gánh nặng công việc cho tất cả mọi người.
Cùng với sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản, động cơ lợi nhuận là nguyên nhân của
sự bất ổn trong quá trình tích lũy vốn và đầu tư, khiến cho ngày càng có nhiều
đợt suy thoái nặng nề hơn. Cạnh tranh vô giới hạn khiến lao động bị lãng phí rất
nhiều và làm bại liệt ý thức xã hội của những cá nhân mà tôi đã đề cập tới.
Tôi cho rằng tình trạng bại liệt ấy là tai họa
lớn nhất của chủ nghĩa tư bản. Cả hệ thống giáo dục của chúng ta phải chịu tổn
thất vì nó. Sinh viên bị nhồi sọ là phải nỗ lực cạnh tranh với nhau, họ được tập
luyện để tôn thờ sự thành công hám lợi như là bước chuẩn bị cho đường công danh
của họ.
Vấn đề tập trung
quyền lực trong chủ nghĩa xã hội
Tôi tin chắc rằng chỉ có một phương cách loại
trừ tai họa nặng nề đó, ấy là thiết lập một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kèm
theo một hệ thống giáo dục hướng tới những mục tiêu xã hội. Trong một nền kinh
tế như thế, các phương tiện sản xuất thuộc về xã hội và được sử dụng theo kế hoạch.
Một nền kinh tế kế hoạch điều tiết sản xuất theo nhu cầu sẽ phân phối công việc
cho tất cả những ai có khả năng lao động và bảo đảm sinh kế cho mọi đàn ông,
đàn bà cũng như trẻ con. Ngoài việc giúp con người khai thác năng khiếu bẩm
sinh của mình, hệ thống giáo dục còn cố gắng phát triển trong con người một ý
thức trách nhiệm đối với đồng loại, thay vì ca tụng quyền lực và sự thành công
như trong xã hội hiện tại của chúng ta.
Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng một nền kinh tế kế
hoạch chưa phải là chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế kế hoạch theo cách hiểu thông
thường có thể kèm theo một sự nô dịch hóa cá nhân hoàn toàn. Thành tựu của chủ
nghĩa xã hội đòi hỏi phải có giải đáp cho vài vấn đề chính trị – xã hội vô cùng
khó khăn: Xét đến việc tập trung hóa cao độ những lực lượng chính trị và kinh tế,
làm thế nào để có thể ngăn ngừa một bộ máy quan liêu có quyền lực tuyệt đối, vô
hạn? Làm thế nào để các quyền lợi của cá nhân được bảo vệ và nhờ đó mà một đối
trọng dân chủ của bộ máy quan liêu được bảo đảm?
Nhận thức về các mục tiêu và vấn đề của chủ
nghĩa là vô cùng quan trọng trong thời kỳ quá độ của chúng ta. Trong điều kiện
hiện nay, việc thảo luận các vấn đề ấy một cách cởi mở, tự do là điều cấm kị [3] nên
tôi cho rằng sự sáng lập tạp chí này là một dịch vụ công quan trọng.
Nguồn: Albert Einstein, Why
Socialism? Monthly Review May 2009 [May 1949]
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Hải Hồ &
pro&contra
[1] Các
tiểu đề và lời chú thích là của người dịch.
[2] Thorstein
Veblen (1827-1929): nhà kinh tế học và xã hội học Hoa Kỳ, nghiên cứu về sự hình
thành chủ nghĩa tư bản độc quyền của Mỹ, lý thuyết về xã hội, những quá trình sản
xuất, phân phối và tiêu dùng v.v. Ông có ảnh hưởng lớn trong giới khoa học kinh
tế quốc dân và xã hội học ở Mỹ.
[3] Chắc
hẳn Einstein muốn nói đến chính sách chống cộng cực đoan ở Mỹ trong “thời kỳ
McCarthy” (1947-1956). Không kể nhiều đảng viên cộng sản và lãnh tụ phái
tả, những người bị tình nghi âm mưu lật đổ, phá hoại, hoạt động gián điệp đều
là đối tượng của chính sách này. Trong số đó, có nhiều nhà khoa học (ví dụ như
Edward Condon, Robert Oppenheimer, Albert Einstein) và nhiều văn nghệ sĩ danh
tiếng (Charlie Chaplin, Thomas Mann, Bertold Brecht, Arthur Miller v.v.). Họ bị
theo dõi, thẩm vấn điều tra, cách chức hay trục xuất, thậm chí bị án tù. Nặng nề
nhất là trường hợp hai vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg bị kết án tử hình vì
tội cung cấp tài liệu làm bom nguyên tử cho Liên Xô, chủ yếu chỉ dựa trên lời
khai của một em trai của Ethel. Năm 1953, hai người bị tử hình, bất kể sự phản
đối dữ dội trên khắp thế giới.
No comments:
Post a Comment