Chủ
nghĩa tư bản, không có đối thủ
Tác giả: Branko
Milanovic
Thái Thị Ngọc Dư dịch
19/05/2021
http://www.phantichkinhte123.com/2021/05/chu-nghia-tu-ban-khong-co-oi-thu.html#more
Từ
khi Chiến tranh lạnh kết thúc, chủ nghĩa tư bản không còn đối thủ nữa. Tuy
nhiên, nó bị tách thành hai loại: một chủ nghĩa tư bản tự do dựa trên tài năng
do Mỹ dẫn đầu, và một chủ nghĩa tư bản chính trị do Trung quốc dẫn đầu. Không
chỉ là hai Quốc gia, đó là hai mô hình ngày nay đang đối đầu nhau trong một cuộc
chiến thu hút ảnh hưởng. Theo Branko Milanovic, trong hai chủ nghĩa đó, chủ
nghĩa nào điều hành tốt nhất những bất bình đẳng về thu nhập và các
cơ cấu giai cấp sẽ được ưa thích nhất.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi9bm-qXw1kbj1miX-TO1T6d8lNP5B2i6AVnJ1xGBZijPKH56MAUSITHZ7Ep7ZkCeztyS0l87LInYahllz3Yyy981P4R2ZuR-NtP-ImZlPW2ytVp-pWfxWEvILQsqWNwqv-N3WveDpnMOeC/w583-h388/free-parking-1340x892.jpeg
“[Giai cấp tư sản] bắt buộc tất
cả các quốc gia phải tiếp nhận kiểu sản xuất
[của nó] […] nghĩa là trở thành tư sản. Nói gọn lại, nó tạo dựng thế giới theo
hình ảnh của nó.”
Marx và Engels[1]
“Vào đúng
lúc của những phát hiện này, tương quan lực lượng có lợi cho người châu Âu đến
nỗi họ phạm phải đủ loại bất công trong những quốc gia xa xôi này mà không bị
trừng phạt. Có thể là trong tương lai khi những người dân bản địa mạnh lên, hoặc
người châu Âu yếu đi, thì dân cư khắp mọi miền trên thế giới sẽ đạt đến sự bình
đẳng này bằng lòng can đảm và sức mạnh, và bằng cách gợi lên một nỗi sợ hãi lẫn
nhau, sự bình đẳng này một mình nó có thể áp đặt nỗi sợ cho các quốc gia độc lập,
để tiếp theo sau sự bất công của chúng là một sự tôn trọng nào đó các quyền của mọi người. Tuy
nhiên, không điều gì có vẻ thực hiện sự công bằng bắt buộc này bằng sự
chia sẻ tri thức và đủ loại cải tiến được sản sinh ra một cách tự nhiên, hay
đúng hơn là một cách cần thiết, bởi một nền thương mại được phát triển từ tất cả
các nước đến tất cả các nước.”
Adam Smith[2]
Chủ nghĩa tư bản như là một hệ thống kinh tế-xã hội duy nhất
Tôi
đã mở đầu chương này bằng hai trích dẫn. Trích dẫn đầu, mượn của Karl Marx và Friedrich Engels, cách đây khoảng 170
năm, và trích dẫn thứ hai của Adam Smith, cách đây gần 250 năm. Những đoạn văn này của
hai tác phẩm kinh điển về kinh tế chính trị, có lẽ hơn cả những bài viết hiện
nay, tóm lược một cách tài tình cốt lõi của hai sự thay đổi
thời đại mà thế giới đang trải qua. Thay đổi thứ nhất là sự khẳng
định chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế-xã hội, không những là thống trị
mà là duy nhất kể từ nay. Thay đổi thứ hai là sự nổi
lên của châu Á, kéo theo một sự tái cân bằng các lực lượng giữa một bên
là châu Âu và Mỹ, và bên kia là châu Á. Lần đầu tiên kể từ cách mạng công nghiệp,
thu nhập của ba lục địa này tiến lại gần nhau, gần bằng mức gần nhau trước cách
mạng công nghiệp (tất nhiên với một mức thu nhập tuyệt đối ngày nay cao hơn nhiều).
Về phương diện lịch sử thế giới, sự thống trị tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản và sự hồi sinh kinh tế châu Á là những diễn tiến đặc biệt - có thể
có mối liên hệ với nhau.
Friedrich Engels (1820-1895)
Adam Smith (1723-1790)
Từ
nay toàn bộ hành tinh đi theo những nguyên tắc kinh tế như nhau – một nền sản
xuất hướng đến lợi nhuận, dùng nhân công ăn lương và tự do về phương diện pháp
lý, và một tư bản tư nhân là chính, với sự phối hợp phi tập trung – điều này
chưa từng xảy ra trong lịch sử. Trong quá khứ, dù ở thời Đế quốc La Mã, ở vùng
Lưỡng Hà vào thế kỷ thứ sáu, ở các quốc gia-đô thị nước Ý thời Trung Cổ hay ở
Hà Lan thời hiện đại, chủ nghĩa tư bản đã luôn luôn phải cùng hiện hữu – có khi
ngay trong cùng một lãnh thổ chính trị – với những phương thức tổ chức sản xuất
khác: các hệ thống săn bắt-hái lượm, chế độ nô lệ dưới mọi hình thức, chế độ
nông nô (những người lao động bị ràng buộc về mặt pháp lý với một lãnh địa và
không thể bán sức lao động của họ ở nơi khác) và sản xuất nhỏ hàng hóa của các
thợ thủ công độc lập hay của tiểu nông. Mới cách đây chừng một thế kỷ, khi những
biến đổi đầu tiên của chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa xuất hiện, thế giới vẫn
luôn luôn chứa chấp tất cả các phương thức sản xuất này. Sau cách mạng Nga, chủ
nghĩa tư bản phân chia thế giới cùng với chủ nghĩa cộng sản, và chủ nghĩa cộng
sản chế ngự các quốc gia với khoảng một phần ba dân số thế giới. Ngày nay, ngoại
trừ một vài vùng ven không hề có ảnh hưởng gì đối với diễn tiến của thế giới,
duy nhất còn tồn tại chủ nghĩa tư bản.
Chiến
thắng trên toàn hành tinh của chủ nghĩa tư bản có nhiều hệ quả mà Marx và
Engels đã xuất sắc báo trước từ năm 1848. Chủ nghĩa tư bản tạo thuận lợi
cho thương
mại quốc tế, các luồng tư bản – mà chủ nghĩa tư bản tuyệt đối cần một
khi lợi nhuận ở nước ngoài quan trọng hơn lợi nhuận trong nước – và trong một số
trường hợp là sự lưu thông của nhân công. Như vậy, không phải là tình cờ nếu toàn
cầu hóa đã phát triển mạnh trong giai đoạn giữa các cuộc chiến
tranh của Napoléon và Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, khi chủ nghĩa tư bản
còn thống trị rộng rãi. Và vẫn không phải là tình cờ nếu toàn cầu hóa hiện nay
trùng hợp với chiến thắng còn tuyệt đối hơn nữa của chủ nghĩa tư bản. Nếu chủ
nghĩa cộng sản chiến thắng thì mặc dù ý thức hệ quốc tế được những người sáng lập
truyền bá, chắc chắn rằng nó không dẫn tới toàn cầu hóa. Các xã hội cộng sản vô
cùng khép kín có tính tự cung tự cấp và dân tộc chủ nghĩa. Ít hàng hóa, tư bản
và lao động vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Ngay trong khối xô viết, các trao
đổi chỉ nhằm tiêu thụ hàng hóa thặng dư hay được thực hiện theo những nguyên tắc
trao đổi thương mại song phương. Điều này khác biệt một cách rõ ràng với chủ
nghĩa tư bản mà tự thân nó có xu hướng bành trướng, như Marx và Engels đã nêu
ra.
Nếu
sự thống trị của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không vấp phải một sự phản
đối nào, thì cũng tượng tự đối với hệ tư tưởng theo đó kiếm tiền không những là
đáng kính trọng, mà còn là mục tiêu quan trọng nhất trong đời người, một động lực
đều khắp trên thế giới, trong mọi tầng lớp xã hội. Đôi lúc khó thuyết phục một
người tán đồng với những niềm tin, những mối quan tâm và những động lực của
chúng ta khi họ không có cùng đời sống hàng ngày, cùng giới, cùng nguồn gốc dân
tộc hay cùng di sản như chúng ta. Nhưng cũng chính người này sẽ dễ dàng hiểu ngôn
ngữ của đồng tiền và của lợi nhuận. Nếu chúng ta giải thích rằng mục đích của
chúng ta là thực hiện những thương vụ tốt nhất có thể, người đó sẽ biết ngay chấp
nhận chiến lược nào sẽ tốt hơn, hợp tác hay cạnh
tranh. Để dùng những thuật
ngữ mác-xít, tình trạng hạ tầng cơ sở (nền tảng kinh tế) và thượng tầng
kiến trúc (những định chế chính trị và pháp lý) phù hợp quá tốt với nhau trong
thế giới hiện nay chắc hẳn sẽ giúp chủ nghĩa tư bản duy trì sự thống trị của
nó, nhưng điều đó cũng góp phần dung hòa các mục tiêu của nhiều người và tạo
thuận lợi cho việc trao đổi thông tin giữa họ trong chừng mực tất cả họ đều biết
những người khác đang tìm kiếm điều gì. Chúng ta sống trong một thế giới mà mọi
người đều tuân thủ những qui tắc như nhau, nói cùng ngôn ngữ tìm kiếm lợi nhuận.
Một
sự khẳng định dứt khoát như vậy chắc hẳn đáng được làm sáng tỏ đôi điều. Quả thực
có một vài cộng đồng hiếm hoi trên thế giới tránh kiếm tiền, và một số người
khinh rẻ đồng tiền. Nhưng họ không có ảnh hưởng gì đến trật tự các sự việc và
chuyển động của lịch sử. Tất nhiên, khẳng định rằng những niềm tin cá nhân và
các hệ thống giá trị hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu tư bản chủ nghĩa không
có nghĩa là tất cả các hành động của chúng ta luôn luôn và hoàn toàn được thúc
đẩy bởi
lợi nhuận. Đôi khi người ta có những hành động thực sự vị tha hoặc hướng về các
mục tiêu khác. Tuy nhiên, đối với phần lớn chúng ta, những hành động này chỉ
đóng một vai trò nhỏ nhoi trong đời sống chúng ta, xét về thời gian dành cho
chúng và những lợi nhuận được hy sinh cho chúng. Thật là lừa mị khi đánh giá những
tỷ phú là “có lòng bác ái” nếu họ chiếm lĩnh được một tài sản kếch sù nhờ những
phương cách không mấy đáng tin cậy và dành một phần vô cùng nhỏ cho các hoạt động
từ thiện, sẽ là bị đánh lừa khi ta chỉ chú trọng đến phần rất nhỏ của các hành
động vì tha nhân, và không biết rằng có lẽ 90% thời gian chúng ta trải qua trong
doanh nghiệp đã dành cho những hoạt động cố ý nhắm đến cải tiến lối sống của
chúng ta bằng cách kiếm được nhiều tiền hơn là chính.
Sự
trùng hợp này giữa những mục tiêu của cá nhân và của hệ thống là một trong những
thành công quan trọng của chủ nghĩa tư bản. Những người bảo vệ quan trọng nhất
của chủ nghĩa tư bản giải thích sự thành công này là vì hệ thống này là “tự
nhiên”, nó phản ánh hoàn toàn cái tôi bẩm sinh – ham muốn của chúng ta về trao
đổi, kiếm được lợi, chiến đấu cho những điều kiện kinh tế tốt hơn và một đời sống
thoải mái hơn. Tuy nhiên, ngoài những chức năng sơ đẳng, tôi nghĩ rằng sẽ không
chính xác nếu nói về những ham muốn bẩm sinh của chúng ta như thể chúng tồn tại
một cách độc lập với những xã hội mà chúng ta sống trong đó. Có nhiều trong những
ham muốn đó là sản phẩm của xã hội hóa – trong trường hợp này là của các xã hội
tư bản, những xã hội duy nhất còn tồn tại.
Montesquieu (1689-1775)
Aristote (384-322
BC)
Một hệ thống chính trị hay kinh tế phải hòa hợp
với các giá trị và hành vi thống lĩnh trong xã hội. Ý tưởng xưa cũ này, được
các tác giả xuất chúng như Platon, Aristote và
Montesquieu nêu ra, được kiểm chứng một cách chắc chắn trong chủ nghĩa tư bản
hiện nay. Chủ nghĩa tư bản đã đặc biệt thành công trong việc chuyển tải các mục
tiêu của nó cho mọi người. Nó đã thúc đẩy hoặc thuyết phục họ chấp nhận những mục
đích của nó, và đã đạt được một sự hòa hợp tuyệt vời, một mặt, giữa cái mà nó cần
để phát triển, và mặt khác, những ý tưởng, ham muốn và giá trị của nhiều người.
Chủ nghĩa tư bản đã hiệu quả hơn nhiều đối thủ cạnh tranh của nó để tạo những
điều kiện cần thiết cho sự ổn định của một hệ thống, theo triết gia chính trị
John Rawls: trong những hành động hàng ngày của mình, các cá nhân biểu lộ và
tăng cường các giá trị mà hệ thống xã hội dựa trên đó.
John Rawls (1921-2002)
Nếu
chủ nghĩa tư bản thống trị thế giới ngày nay, thì cần lưu ý rằng có hai loại
khác nhau: một chủ nghĩa tư bản tự do dựa trên tài năng phát triển dần dần ở
phương Tây trong hai thế kỷ vừa qua, và chủ nghĩa tư bản Nhà nước,
hay độc đoán, mà Trung Quốc là ví dụ tiêu biểu nhất, nhưng ta cũng tìm thấy tại
những nơi khác ở châu Á (Singapore, Việt Nam, Myanmar), ở châu Âu và châu Phi
(nước Nga và các nước Đông Âu, Trung Á, Ethiopia, Algeria, hay cả Rwanda). Như
thường xảy ra trong lịch sử nhân loại, sự xuất hiện và chiến thắng của một hệ
thống mới hay một tôn giáo mới thì sau đó sẽ nhanh chóng diễn ra một dạng phân
liệt giáo hội giữa các biến thể khác nhau của cùng một nguyên lý nền tảng. Sau
chiến thắng trong vùng Địa trung Hải và Cận Đông, đạo Cơ Đốc đã trải qua những
tranh luận rất gay gắt về hệ tư tưởng và những chia rẽ (đáng kể nhất là chia rẽ
giữa chính thống giáo và thuyết chống tam vị nhất thể - arianisme -) cuối
cùng đã dẫn đến sự chia rẽ đầu tiên quan trọng nhất giữa giáo hội phương Đông
và phương Tây. Hồi giáo cũng có chung số phận. Hầu như tức thì sau cuộc chinh
phục vang dội, đạo Hồi bị chia thành hai nhánh: sunni và shiite. Cuối cùng, chủ
nghĩa cộng sản, đối thủ của chủ nghĩa tư bản trong thế kỷ XX, là một khối thống
nhất không lâu, đã chia thành phe Xô Viết và phe Trung Quốc. Về việc này, chiến
thắng toàn cầu của chủ nghĩa tư bản cũng đi theo cùng một sơ đồ: chúng ta đang
đối diện với hai mô hình của chủ nghĩa tư bản khác nhau không những chỉ trong
lĩnh vực chính trị, mà cả trong lĩnh vực kinh tế, và ở một chừng mức thấp hơn
là về xã hội. Dù có điều gì xảy ra với sự cạnh tranh giữa chủ nghĩa tư bản tự
do và chủ nghĩa tư bản độc đoán, tôi cho rằng có vẻ ít có khả năng một trong
hai mô hình sẽ duy nhất lãnh đạo thế giới.
Sự nổi lên của châu Á và sự tái cân bằng thế giới
Thành
công kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc đoán giải thích sự phát triển thứ hai đã
nêu trên: sự
nổi lên của châu Á. Hẳn nhiên, sự nổi lên này không phải nhờ duy nhất
mô hình tư bản chủ nghĩa; các nước đại diện cho chủ nghĩa tư bản tự do như Ấn Độ
và Indonesia cũng tăng trưởng nhanh chóng. Tuy nhiên, không thể chối cãi rằng
Trung Quốc dẫn đầu sự biến đổi lịch sử của châu Á. Khác với sự xuất hiện trước
đây của chủ nghĩa tư bản cho đến khi nó thống trị toàn cầu, sự thay đổi này có
một tiền lệ lịch sử, trong chừng mực người ta gặp lại ở lục địa Âu-Á những điều
tương tự sự phân bố các hoạt động kinh tế của những thời kỳ trước cách mạng
công nghiệp. Tuy vậy cũng có một sự khác biệt đáng kể. Các mức độ phát triển
kinh tế của Tây Âu và của châu Á (Trung Quốc) là gần nhau, chẳng hạn như vào
các thế kỷ thứ I và II hay thế kỷ XIV và XV, nhưng lúc đó hai vùng địa lý này của
thế giới tác động lẫn nhau rất ít, và hầu như không biết gì về nhau.
Ngày
nay chúng ta biết về mức độ phát triển tương đối của hai vùng này nhiều hơn là
vào thời đó. Cũng như vậy, từ nay những tương tác sẽ mạnh mẽ và thường xuyên.
Cuối cùng, trong cả hai vùng, mức thu nhập cao hơn ngày trước rất nhiều. Hai
vùng này của thế giới (một mặt, Tây Âu và những nhánh Bắc Mỹ của nó, mặt khác
là châu Á), với 70% dân số thế giới và 80% sản lượng, duy trì những liên lạc
thường xuyên, thông qua thương mại, đầu tư, chuyển động của dân số, chuyển giao
công nghệ hay trao đổi các ý tưởng. Như vậy, cạnh tranh giữa
các vùng này ít gay gắt hơn lẽ ra nó phải có, vì các hệ thống tuy tương tự nhau
nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Và đó là trường hợp mà cạnh tranh sẵn sàng tác
động, một khi một trong hai hệ thống toan tính vượt lên trên hệ thống kia và phần
còn lại của thế giới, hay đơn giản chỉ là bắt chước, khi một trong hai hệ thống
dễ bị sao chép hơn hệ thống kia bởi phần còn lại của thế giới.
Sự
tái cân bằng này chấm dứt ưu thế quân sự, chính trị và kinh tế của phương Tây,
được xem như đã đạt được từ hai thế kỷ nay. Chưa bao giờ trong lịch sử có một
phần của thế giới đã biểu thị một ưu thế mạnh như châu Âu đối với châu Phi và
châu Á trong thế kỷ thứ XIX. Những cuộc chinh phục thuộc địa đã phản ánh rõ
ràng ưu thế này, nó cũng được phản ánh trong sự chênh lệch thu nhập giữa các
vùng này, nghĩa là trong những bất bình đẳng trên thế giới về
thu nhập giữa những cư dân của hành tinh (bất bình đẳng mà chúng ta có thể ước
lượng khá chính xác kể từ 1820) như biểu đồ dưới đây đã chỉ ra. Trong biểu
đồ này, trong suốt quyển sách, những bất bình đẳng đều được đo lường bằng hệ số
Gini từ 0 (không có bất bình đẳng) đến 1 (bất bình đẳng tối đa). (Chỉ số này
thường được biểu diễn dưới dạng phần trăm, từ 0 đến 100, lúc đó mỗi điểm phần
trăm được gọi là điểm Gini).
Ước lượng những bất bình đẳng
trên thế giới từ 1820 đến 2013
Hệ số
Gini, 1980-2013
(Xem nơi trang chính http://www.phantichkinhte123.com/2021/05/chu-nghia-tu-ban-khong-co-oi-thu.html#more)
Nguồn:
Những dữ liệu về giai đoạn 1820-1980 dựa theo
Bourguignon và Morrisson (2002), bằng cách thay thế sản phẩm nội địa thô tính
theo đầu người bởi những dữ liệu mới của dự án Maddison (2018). Đối với giai đoạn
1988-2001 các dữ liệu dựa theo Lakner và Milanovic (2016) do tôi cập nhật. Tất
cả các thu nhập đều được tính bằng đô la PPP (ngang bằng sức mua) năm 2011 (chuỗi
cuối cùng của International Comparison Project - Dự án so sánh quốc tế
-, có sẵn năm 2018).
Récupérer les données (Dữ
liệu được thu thập), được thiết lập với Datawrapper
Trước
cách mạng công nghiệp ở phương Tây, những bất bình đẳng trên thế giới được thu
hẹp, hầu như do những bất bình đẳng trong nước (khác biệt thu nhập giữa những
người sống trong cùng một quốc gia), cũng như những bất bình đẳng quốc tế (khác
biệt thu nhập trung bình giữa các nước). Điều này khác hẳn giai đoạn bành trướng
của phương Tây. Những bất
bình đẳng trên thế giới gia tăng gần như liên tục từ năm 1820 đến
đầu Chiến tranh Thế giới thứ nhất, từ 55 điểm Gini (khoảng chừng mức độ bất
bình đẳng hiện nay của các nước châu Mỹ La tinh) lên 70 (nghĩa là một chỉ số
cao hơn mức bất bình đẳng hiện nay quan sát được ở Nam Phi). Sự nâng cao mức sống
ở châu Âu, Bắc Mỹ, rồi Nhật Bản (kết
hợp với tình trạng đình trệ của Ấn Độ và Trung Quốc) giải thích căn cơ của sự
gia tăng những bất bình đẳng này; mặc dù sự gia tăng bất bình đẳng trong nội bộ
những nước sẽ trở thành thế giới giàu có cũng có một vai trò. Sau năm 1918, những
bất bình đẳng trên ghế giới có giảm nhẹ, có vẻ như do những dấu vết của Chiến
tranh Thế giới thứ nhất và của cuộc Đại Khủng hoảng - trên cái nền chung mà
chúng tôi quan sát được - khi thu nhập ở phương Tây ngừng gia tăng.
Vào
cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai, những bất bình đẳng trên thế giới đạt mức
cao nhất chưa từng thấy, khoảng 75 điểm Gini, mức độ này được duy trì cho đến
thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX. Trong giai đoạn này, chênh lệch giữa phương
Tây và châu Á - đáng chú ý là Trung Quốc và Ấn Độ - không tăng thêm, khi độc lập
của Ấn Độ và cách mạng của Trung Quốc đặt nền móng cho sự tăng trưởng của hai
quốc gia khổng lồ này. Hai quốc gia này đã duy trì vị trí tương đối của mình so
với phương Tây giữa cuối những năm 1940 và đầu những năm 1980. Nhưng vị trí này
đã rất thuận lợi cho những nước giàu: tổng sản phẩm quốc nội (PIB/GDP) tính
theo đầu người của Ấn Độ và Trung Quốc chỉ bằng dưới 10% chỉ tiêu này (tổng sản
phẩm quốc nội theo đầu người) của các nước phương Tây.
Chênh
lệch thu nhập bắt đầu thay đổi rõ sau năm 1980. Các cải cách được tiến hành ở
Trung Quốc đã tạo ra tăng trưởng chừng 8%/người/năm trong suốt bốn thập kỷ tiếp
theo, giảm mạnh chênh lệch với phương Tây. Ngày nay, tổng sản phẩm quốc nội
tính theo đầu người của Trung Quốc bằng 30% đến 35% chỉ tiêu này của phương
Tây, nghĩa là bằng mức chênh lệch năm 1820. Xu hướng gia tăng là rõ ràng (so với
phương Tây), và có lẽ đà gia tăng này sẽ tiếp tục cho đến khi các mức thu nhập
bằng nhau, hoặc gần bằng.
Cách
mạng kinh tế của Trung Quốc được nối tiếp bởi những phát triển nhanh chóng
tương tự ở Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia và những nơi khác ở châu Á. Mặc
dù sự tăng trưởng này kéo theo sự gia tăng bất bình đẳng trong tất cả các nước
này (và đặc biệt là ở Trung Quốc), sự thu hẹp chênh lệch với phương Tây đã góp
phần giảm bất bình đẳng trên thế giới. Do đó, chỉ số Gini toàn cầu gần đây đã
giảm.
Sự hội
tụ các thu nhập châu Á và phương Tây diễn ra trong một cuộc cách mạng khác, đó
là cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông (viết tắt tiếng Pháp: TIC
– viết tắt tiếng Anh: ICT: Information and Communication
Technology - ND) – một cuộc cách mạng sản xuất lần này đã
tạo thuận lợi cho châu Á. Cách mạng ICT đã góp phần vào sự phát triển nhanh
chóng hơn nhiều của châu Á, nhưng cũng góp phần vào quá trình phi công nghiệp
hóa của phương Tây, và nó rất giống quá trình phi công nghiệp hóa mà Ấn Độ đã
trải qua trong cách mạng công nghiệp. Như vậy, chúng ta có hai thời kỳ được đánh
dấu bởi những biến đổi nhanh chóng về công nghệ, đó là những điểm mốc trong diễn
biến của những bất bình đẳng trên thế giới (xem biểu đồ nêu trên). Chúng ta
chưa thấy hết những
tác động của cách mạng ICT, nhưng về nhiều mặt chúng cũng tương tự như
cách mạng công nghiệp: một sự xáo trộn lớn trong xếp hạng thu nhập trên thế giới,
một số nhóm lên hạng trong khi số khác bị xuống hạng, kèm theo sự tập trung địa
lý rõ nét những nhóm được lợi và những nhóm bị thiệt hại.
Xem
xét hai cuộc cách mạng này như là những hình ảnh đảo ngược nhau là một điều thú
vị. Cuộc cách mạng đầu đã dẫn đến sự gia tăng những bất bình đẳng trên thế giới
do sự giàu lên của phương Tây, trong khi cuộc cách mạng thứ hai đã hội tụ các
thu nhập của một phần lớn các vùng trên hành tinh do sự giàu lên của châu Á. Phải
thấy trước rằng cuối cùng các mức thu nhập sẽ bằng nhau trên toàn bộ đại lục
Âu-Á và Bắc Mỹ và sẽ giảm bớt phần nào những bất bình đẳng trên thế giới.
(Nhưng vẫn còn một ẩn số lớn, số phận của châu Phi, hiện tại không đuổi kịp thế
giới giàu, và dân số lại gia tăng nhanh nhất).
Tái
cân bằng kinh tế thế giới không chỉ về mặt địa lý mà còn là chính trị. Thành
công kinh tế của Trung Quốc đặt lại vấn đề sự khẳng định của phương Tây theo đó
có một mối liên hệ tất yếu giữa chủ nghĩa tư bản và dân chủ tự do. Thực ra, điều
khẳng định này bị phản bác ngay tại phương Tây bởi những thách thức của giới
dân túy và giới
cầm quyền tham nhũng cướp đoạt tài sản quốc gia đối với dân chủ tự
do.
Tái
cân bằng kinh tế thế giới đặt kinh nghiệm châu Á lên hàng đầu trong những suy
nghĩ về phát triển kinh tế. Thành công kinh tế của châu Á làm cho mô hình của
nó trở nên hấp dẫn đối với các nước khác, và có thể thay đổi cách nhìn của
chúng ta về tăng trưởng và phát triển kinh tế, tương tự như kinh nghiệm của nước
Anh được Adam Smith truyền cảm hứng đã ảnh hưởng đến lối suy nghĩ của chúng ta
trong suốt hai thế kỷ vừa qua.
Trong
bốn mươi năm vừa qua, năm nước lớn nhất châu Á (không kể Trung Quốc) hầu như
luôn luôn đạt tỷ lệ tăng trưởng theo đầu người cao hơn các nền kinh tế phương
Tây. Chỉ có hai năm là ngoại lệ. Và xu hướng này sẽ tiếp tục. Năm 1970, phương
Tây sản xuất 56% tổng sản phẩm quốc nội trên thế giới, châu Á (bao gồm cả Nhật
Bản) chỉ có 19%. Ngày nay, các tỷ lệ này là 37% cho phương Tây và 43% cho châu
Á[3].
Xu hướng này là rõ ràng nếu ta so sánh Mỹ với Trung Quốc, và Đức với Ấn Độ (biểu
đồ bên dưới). Sự phát triển vượt bậc của châu Á trong giai đoạn toàn cầu hóa được
phản ánh trong sự ủng hộ của dân cư. Sự ủng hộ này rất đậm nét ở châu Á, đặc biệt
là ở Việt Nam (91% số người được hỏi nghĩ rằng toàn cầu hóa là một điều tốt), sự
ủng hộ ở châu Âu yếu hơn, đặc biệt là ở Pháp (chỉ 37% dân cư bênh vực toàn cầu
hóa)[4].
Người
phương Tây thấy không thoải mái với toàn cầu hóa một phần do sự cách biệt giữa
tầng lớp tinh hoa đã thích nghi rất tốt, và một số đáng kể những người ít được
hưởng lợi từ sự quốc tế hóa các giao dịch, họ không muốn chúng nữa, và họ thấy,
với lý do chính đáng hoặc không, trong các luồng di dân và thương mại quốc tế
nguyên nhân của mọi điều xấu xa. Tình cảnh này giống một cách lạ lùng tình cảnh
các xã hội thế giới thứ ba trong những năm 1970. Chúng phô bày một khía cạnh lưỡng
phân – một tầng lớp tư sản được kết nối với hệ thống kinh tế thế giới, và một
phần lớn dân chúng ở hậu phương bị bỏ lại phía sau. “Bệnh” này, trước đây được
cho là chỉ chạm đến các nước đang phát triển (người ta gọi là “sự thiếu nối khớp”
trong ngôn ngữ tân mác xít) dường như đã di chuyển về phương bắc và từ nay tấn
công vào các nước giàu. Cùng lúc, và cũng trớ trêu không kém, khía cạnh lưỡng
phân của một số nền kinh tế đang phát triển lại giảm bớt nhờ được hội nhập hoàn
toàn vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Biểu đồ tỷ lệ sản
phẩm nội địa thô trên thế giới của Đức, Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ.
Hai loại chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa tư bản tự
do dựa trên tài năng do Mỹ dẫn đầu, và chủ nghĩa tư bản chính trị do Trung Quốc
dẫn đầu) dường như đối đầu nhau từ nay. Và ngay cả nếu Trung Quốc không nêu ra
ý muốn đề nghị và “xuất khẩu” một phương án chính trị, và trong một chừng mực
nào đó là kinh tế của chủ nghĩa tư bản, thì chính chủ nghĩa tư bản chính trị
phô bày một số đặc điểm khiến nó trở nên hấp dẫn đối với giới tinh hoa chính trị
của phần còn lại của thế giới, và không chỉ ở châu Á: hệ thống này cung cấp cho
giới tinh hoa chính trị một sự tự chủ
lớn hơn. Nó cũng có thể thu hút những người bình thường vì nó có vẻ hứa
hẹn những tỷ lệ tăng trưởng cao. Mặt khác, chủ nghĩa tư bản tự do đem đến nhiều
lợi ích đã được biết đến nhiều, điều quan trọng nhất chắc hẳn là nhờ dân chủ và
Nhà nước pháp quyền được đánh giá cao, và có thể được xem một cách thỏa đáng là
những tác nhân gia tăng nhanh phát triển kinh tế. Thật vậy, những tác nhân này
khuyến khích đổi mới sáng tạo, tạo thuận lợi cho thăng tiến xã hội, và tạo nhiều
cơ hội thành công gần như nhau cho tất cả mọi người. Chính sự từ bỏ một số khía
cạnh chủ yếu của hệ thống giá trị tiềm ẩn này đã đe dọa sự bền vững của chủ
nghĩa tư bản tự do. Chính xác hơn, mối nguy hiểm này đến từ diễn biến hướng đến
một tầng lớp thượng lưu tự thỏa mãn các nhu cầu và từ một sự phân cực giữa một
bên là giới tinh hoa, và một bên là phần còn lại của dân cư. Không những là sự
sống còn của hệ thống, mà còn là sức hấp dẫn của mô hình trong mắt phần còn lại
của thế giới cũng bị đe dọa.
Branko Milanovic (1953-)
Trong hai chương tiếp theo, tôi sẽ trình bày
những nét chính của hai biến thể của chủ nghĩa tư bản hiện đại, bằng cách tập
trung vào những đặc điểm cơ bản của chúng hơn là những bàn luận lan man thoáng
qua. Để có thể nghiên cứu diễn biến về lâu dài của chủ nghĩa tư bản tự do dựa
trên tài năng và của chủ nghĩa tư bản chính trị, chứ không đơn giản là những
dao động nhất thời, thì điều quan trọng là nhớ rõ sự khác nhau giữa những đặc
điểm có tính hệ thống và những đặc điểm phụ. Tôi sẽ đặc biệt chú tâm đến các cơ
cấu xã hội và kinh tế mà hai hệ thống tái tạo ra, đặc biệt là cách mà các cơ cấu
này tác động đến những bất bình đẳng về thu nhập và cơ cấu các giai cấp. Tôi
xác tín rằng chính cách mà hai hệ thống điều hành những vấn đề này sẽ xác định
sức hấp dẫn tương đối và sự ổn định của chúng, và do đó, sẽ xác định chúng ta
mong muốn sống trong hệ thống này hay hệ thống kia.
------------------------------
Bài
này là một phần trích từ bản dịch Capitalism, Alone của Branko
Milanovic, nhà xuất bản La Découverte, ngày tháng 9 năm 2020, với nhan đề Le
Capitalisme, sans rival (Chủ nghĩa tư bản, không có đối thủ). Chúng tôi
trình bày lại với nhã ý cho phép của nhà xuất bản La Découverte.
Hình bìa Le Capitalisme, sans rival
Hình bìa Capitalism, Alone
Người
dịch: Thái Thị Ngọc Dư
Nguồn: “Le
capitalisme, sans rival”, Le Grand Continent, 11.9.2020
-----------
Chú thích:
[1] Le Manifeste du parti communiste (Tuyên ngôn của đảng cộng sản)
(Francis Brière dịch), 10/18, Paris, 1998 (1848), p. 24-25.
[2] La Richesse des nations (Sự giàu có của các quốc gia) (Philippe
Jaudel dịch), quyển IV, chương 7, Economica, Paris, 2002 (1776), p. 648.
[3] Từ năm 1970 đến 2016, tổng sản phẩm thô nội địa trên thế giới đã tăng gần
5 lần tính theo giá trị thực tế (tăng từ 22.000 tỷ đô la lên 105.000 tỷ đô la
PPP [ngang bằng sức mua], trong khi dân số thế giới tăng gấp đôi (từ 3,5 tỷ lên
7 tỷ).
[4] Những kết quả này do YouGov báo cáo năm 2016. Xem Jeff Desjardins, “What People Think of Globalization, by Country” (Dân
chúng nghĩ gì về toàn cầu hóa, theo từng quốc gia), Visual Capitalist,
9/11/2017.
No comments:
Post a Comment