Khủng
bố là một chiến lược của Việt Cộng
Phan
Ba
Apr 11, 2021
https://saigonnhonews.com/khung-bo-la-mot-chien-luoc-cua-viet-cong/
Người lính gác trước
Khách sạn Thanh Thế mệt mỏi hút một điếu thuốc lá. Anh ấy là một chàng trai trẻ
có lẽ chừng 25 tuổi. Anh có một khuôn mặt hẹp, đầy vẻ sợ hãi. Ba đứa bé người
Hoa đang ở trần chơi đùa trong cát bụi của đường phố trước những hàng rào kẽm
gai. Một người phụ nữ trong chiếc áo dài màu đen dừng lại để xem chúng. Trời sắp
mưa. Mặt trời chiếu những tia nắng của cái ngày nóng ẩm xuống quang cảnh đó.
Thiên nhiên thở chậm rãi hơn vào giờ này.
Một nam thiếu niên có lẽ
chừng 17 tuổi đứng cách đó vài trăm mét tại một góc đường với một con đường phụ.
Có một chiếc xe đạp dựa vào tường nhà, rỉ sét, có lẽ đã từng được sơn màu kim
loại. Một cái gói nhỏ lủng lẳng ở yên xe. Thiếu niên này đang đứng chờ. Em ấy
chờ đợi điều gì? Em trông có vẻ căng thẳng và bồn chồn và sờ soạng tay lái chiếc
xe đạp.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2021/04/life_jan_1952.jpg
Dưới bước ảnh ghi: ngày 9
tháng 1 năm 1952. Đây là cảnh quảng trường trước nhà hát Sài Gòn sau khi bị Việt
Minh khủng bố bằng một trái bom gài trong thùng một chiếc xe tải. Nơi đây vốn
dĩ luôn đông người qua lại, hậu quả của việc khủng bố này là một người đàn ông
bị thổi bay đôi chân (trên hình). Người tài xế xe tải chết tại chỗ, chiếc Jeep
mui vải bị cháy lan sau khi hứng chịu vụ nổ từ chiếc xe tải và kéo theo hàng loạt
xe khác cháy theo khiến hơn 10 người thiệt mạng. 2 phút sau đó, một vụ nổ khác
xảy ra ngay Tòa Thị Chính, đánh dấu sự trở lại và gia tăng bạo động của Việt
Minh. 2 phút sau đó, một vụ nổ khác xảy ra ngay Tòa Thị Chính, đánh dấu sự trở
lại và gia tăng bạo động của Việt Minh.
Bất thình lình, cái nóng
dường như không còn có thể chịu đựng được nữa. Người lính gác nhìn sang mấy đứa
bé đang ngồi trên đường. Anh ấy bồn chồn châm một điếu thuốc lá mới. Ca gác của
anh ấy chắc hẳn là sắp kết thúc.
Một người đàn ông trung
niên bước đến với chàng thiếu niên đó, nói nhanh điều gì đó với em ấy. Một người
họ hàng mà em ấy đang chờ? Họ chia tay nhau. Người thiếu niên đó dắt chiếc xe đạp
và chậm chạp bước đến chỗ người lính gác. Em toát mồ hôi. Người ta nhìn thấy những
giọt mồ hôi trên trán em. Em ấy leo lên chiếc xe đạp và dừng lại ở một cái cây
cách người lính gác hai mét. Em ấy bước xuống chiếc xe đạp. Người lính gác
không chú ý tới em. Chỉ là một thiếu niên người Việt nhỏ bé.
Mười hai giờ, một tiếng
còi vang lên. Những người sĩ quan và quân nhân đầu tiên bước ra khỏi khách sạn.
Họ sẽ được một chiếc xe buýt đón vào lúc 12 giờ 15. Họ bước ra khỏi ngôi nhà có
hơi sớm một chút. Người lính gác chào. Một viên đại úy không quan tâm đến em
người Việt nhỏ bé đang đi bộ chậm rãi đó khi ông ta gặp em trong lúc đang bước
đi theo chiều ngược lại.
Vài người Mỹ bước tới xem
mấy đứa trẻ con đang chơi đùa ở bên kia đường. Bất thình lình, người lính gác
hiểu được. Anh ấy hét to: “Attention!” Thái độ của em thiếu niên có một cái gì
đó khiến cho anh ta chú ý.
Em thiếu niên đó đã đi xa
cho tới mức thật ra không ai nghĩ rằng chiếc xa đạp bị bỏ lại đó là của em ấy.
Người lính gác chắc phải nhìn thấy em ấy như thế nào đó, vì ngay trong khoảnh
khắc đó anh ấy đã nổ súng. Anh bắn không trúng em thiếu niên đó. Anh ấy đã hiểu
được sự việc quá chậm.
Anh ấy không còn có thể
bóp cò thêm lần thứ nhì nữa, vì anh ấy đã nằm trong vũng máu của mình ở phía
sau những cái bao cát. Anh không còn thở nữa. Một mảnh từ chiếc xe đạp đã xé
nát cổ anh. Người lính gác đã phản ứng muộn mất một vài giây.
Với tiếng súng cuối cùng
từ loạt đạn tiểu liên đã có một tiếng nổ thật lớn. Mấy đứa trẻ con gào thét, chúng
cũng lăn lộn trong vũng máu của chúng. Những người khác im lặng – câm nín mãi
mãi.
Một người lính Mỹ nằm trắng
nhợt một cách kỳ lạ trên đá lát vỉa hè. Chỉ còn một cái mụn trên gương mặt anh
là còn một ít màu sắc. Không ai sẽ còn cảm thấy khó chịu vì điều đó nữa. –
Tiếng còi báo động vang
lên ngay sau đó. Nhiều người cầm súng lao ra đường. Nhưng đã quá muộn. Những
gói bông băng được xé ra, vết thương được băng bó tạm, xe cứu thương đến, quân
cảnh đến. Một cảnh hoạt động náo nhiệt, bài ca cầu hồn của khủng bố. Hai người
lính, một người phụ nữ và hai đứa trẻ con không còn sống nữa. Họ đã chết dưới
ánh nắng duy nhất của cái ngày ẩm ướt này.
Lại thêm năm mạng sống nữa
đã tìm thấy một cái kết cuộc vô nghĩa vào buổi trưa này. Những trái tim trẻ
trung, khỏe mạnh đã ngưng đập. Con người có thể chịu trách nhiệm cho sự khủng bố
này hay không?”
Phải trích dẫn thật dài
như vậy từ hồi ký của một người bác sĩ Đức đã làm việc trên con tàu bệnh viện
Helgoland tại Việt Nam[i] để bạn đọc có thể cảm nhận được phần nào không khí
đáng sợ lúc bấy giờ. Khủng bố có thể có mặt ở mọi nơi, mọi lúc. Nó có thể lấy
đi mạng sống của đàn bà, con nít vô tội bất cứ lúc nào, bất cứ ở nơi đâu.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2021/04/le-quoc-khanh-26-10-1962.jpg
Quảng trường Tòa Đô
Chánh sau vụ VC ném lựu đạn làm 7 người chết, 47 người bị thương trong dịp mừng
lễ Quốc Khánh 26-10-1962.
Một bác sĩ người Đức
khác, ông Heimfried–Christoph Nonnemann, bác sĩ trưởng đầu tiên của con tàu bệnh
viện Helgoland, cũng viết: “Việt Cộng treo cổ những người già nhất trong làng
lên, những người mà lần bầu cử họ đã được các nhà quan sát quốc tế tuyên bố là
hoàn toàn không thể chê trách gì được. Việt Cộng dùng súng liên thanh bắn vào
đám đông đàn bà và con nít, cho nổ mìn trong chính những đám đông người đó, bắn
súng cối vào nơi họp chợ, nơi nhiều nhất là có một người lính về phép giúp vợ
mình đi chợ. Khủng bố trực tiếp.”[ii]
Nhân dịp được vào thăm một
trại tù binh ở Quảng Ngãi, một nhân viên của ông Nonnemann đã hỏi những người
tù binh Việt Cộng tại sao họ lại tiến hành những hành động khủng bố đó chống lại
phụ nữ và trẻ em, chống lại chính những người cùng quê hương với họ. Câu hỏi đó
không được trả lời.
Nhưng thật ra câu trả lời
hết sức đơn giản: Đó là nguyên tắc dọa nạt một số đông người nhưng thụ động bằng
cách dùng một nhóm nhỏ người khủng bố họ. Tức là khống chế số đông thụ động bằng
cách gieo rắc sự sợ hãi. Điển hình là vụ đánh bom gài trong thùng xe ngày 9
tháng 1 năm 1952 trước quảng trường nhà hát Sài Gòn. Đây là một nơi đông người
đi lại. Vụ nổ bom này đã khiến cho 10 người thiệt mạng[iii]. Hay vụ đánh bom
nhà hàng Mỹ Cảnh đêm 28 tháng 6 năm 1965, giết chết ít nhất 31 người và làm cho
42 người bị thương.
Trong một cuộc chiến
tranh du kích, sự sống còn của phe yếu phụ thuộc vào sự chịu đựng và hy sinh của
người dân. Ranh giới của sự chịu đựng này là ở đâu, điều đó không thể nhìn thấy
trước được. Vì vậy mà Việt Cộng cần phải dùng đến những biện pháp đàn áp và khủng
bố để khống chế dân chúng không cho người dân nổi dậy chống họ, ép buộc cung cấp
lương thực và bảo đảm cho mình một chỗ dựa nhất định mà nếu mất nó thì coi như
sẽ thua cuộc chiến. Và khi mọi sự đe dọa, cảnh cáo vẫn không mang lại kết quả,
Việt Cộng cũng không ngần ngừ khi phải giết người: trong thời gian từ 1957 cho
tới 1972 có khoảng chừng 37.000 người bị giết chết và 58.000 người bị bắt cóc dẫn
đi mất – đó là còn chưa tính tới một con số lớn những nạn nhân còn chưa biết tới[iv].
Ở Huế năm 1968, có chừng 3000 người có tên trên danh sách đã bị thảm sát và độ
chừng 3000 người nữa bị bắt đi mất[v].
Các trại tỵ nạn và các
ngôi làng thân với chính phủ bị Việt Cộng thường xuyên pháo kích để trừng phạt
hoặc để chứng tỏ rằng người Mỹ và quân đội VNCH không có khả năng che chở cho họ.
Được biết tới nhiều nhất là vụ bắn hỏa tiển vào ngay trung tâm Sài Gòn ngày 1
tháng 11 năm 1966, trong lúc hàng ngàn người dân thường và quân đội Đồng Minh
đang chuẩn bị đón mừng Quốc Khánh.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2021/04/saigon_1_11_1966_2.jpg
Vụ bắn hỏa tiển vào
ngay trung tâm Sài Gòn ngày 1 tháng 11 năm 1966, trong lúc hàng ngàn người dân
thường và quân đội Đồng Minh đang chuẩn bị đón mừng Quốc Khánh.
Khủng bố cũng là một
phương pháp nhằm để giành dân, giành đất, giành một ngôi làng. Việt Cộng giết
chết nhân viên của chính phủ Sài Gòn, giết chết trưởng làng và thầy giáo – là
những người có tiếng nói và thường được người dân làng tin theo – nhằm tiêu diệt
quyền lực của chính phủ và rồi thay thế những người đó bằng người của mình.
Tính cho tới năm 1968, Việt Cộng đã giết chết 13.000 người già nhất làng và
nhân viên nhà nước trong 15.000 ngôi làng, họ hành quyết thầy giáo nhiều tới mức
trong khoảng thời gian từ 1959 tới 1961 chính phủ đã phải đóng cửa tổng cộng là
636 trường học[vi]. Trong một thống kê khác, từ 1958 cho tới mười tháng đầu của
năm 1966, Việt Cộng đã ám sát 11.200 người dân thường và bắt cóc mang đi 39.750
người khác[vii]. Họ cũng không ngần ngừ khi tiến hành một cuộc thảm sát để răn
đe. Ví dụ như cuộc thảm sát người Thượng ở Đắc Sơn (Bình Phước) ngày
5-12-1967[viii]. Đắk Sơn là một làng với chừng 2000 người Thượng do chánh phủ
kiểm soát ở tỉnh Phước Long. Khi có chừng 800 người Thượng từ những ngôi làng bị
Việt Cộng chiếm chạy trốn về Đắk Sơn, du kích đã quyết định lấy Đắk Sơn để làm
gương đe dọa nhằm ngăn chận những đợt chạy trốn khác ra khỏi các vùng đất do Việt
Cộng kiểm soát. Ngày 5 tháng 12 năm 1967, dưới sự che chở của đêm tối, một nhóm
quân du kích Việt Cộng và quân đội Bắc Việt đã thâm nhập vào làng Đắk Sơn đốt
phá và bắn giết nhiều người. Kể cả khi chạy trốn vào trong hang động, họ cũng
đã bị đốt cháy hay chết ngạt bằng súng phun lửa. Người ta tìm thấy hơn 200 xác
chết sau đó, phần lớn là thân thể của phụ nữ và trẻ em. Nhiều người mất tích,
được cho rằng đã bị bắt cóc mang đi mất.
Tất cả những vụ khủng bố
này không phải là bộc phát, những mục tiêu của nó không phải là ngẫu nhiên mà đều
được chọn lựa và chuẩn bị trước một cách kỹ lưỡng. Ví dụ như trong vụ khủng bố
nhà hàng Mỹ Cảnh khiến cho 42 người chết và hơn 80 người bị thương, “Phi
Long đã phải điều nghiên kỹ địa hình và thói quen đi lại, chơi bời, ăn uống của
địch”[ix].
Và nó cũng không phải mới
bắt đầu trong cuộc chiến này, trong những năm này mà khủng bố đã có từ trong cuộc
chiến tranh chống người Pháp:
“Trong khi đó, ở thị trấn
và thành phố, người Pháp cố gắng chống lại các cuộc tấn công khủng bố – bom ném
vào các quán cà phê đông đúc, súng bắn các quan chức. Những sự cố như vậy là một
phần của sự bình thường mới: Tại một buổi tiếp tân của thị trưởng tại Hải
Phòng, khách khứa đã bị giật mình bởi một vụ nổ súng ở gần đó, nhưng cocktail
và trò chuyện lại tiếp diễn khi biết rằng một người của Việt Minh đã bị bắn chết
sau khi ném lựu đạn một đồn cảnh sát. Trong một cuộc tấn công thành công bất
thường và tàn nhẫn, du kích tấn công vào một bữa tiệc tối được tổ chức tại một
nhà người Pháp ở Vũng Tàu, gần cửa sông Sài Gòn. Với lựu đạn và súng Sten cũ của
Anh, họ đã giết chết tám sĩ quan, hai phụ nữ, sáu đứa con và bốn người hầu Việt.”[x]
Ngay từ ngày ấy đã có những
vụ xử tử các trưởng làng không tuân theo “cách mạng”:
“Việt Minh xử tử các trưởng
làng không tuân theo ý muốn của họ, thường bằng cách chôn cất sống trước mặt những
người nông dân, sau khi bị họ tra tấn theo kiểu thời trung cổ. Khi Việt Minh giết
chết một người lính Việt bị bắt phục vụ cho Pháp, một du kích đã mượn một cái
kìm từ một ngôi nhà gần đó, và hắn đã lấy đi phần vàng của người đàn ông đó. Một
nhân chứng trẻ em viết: ‘Em đã thấy nhiều xác chết bị chặt đầu, bị chặt ra làm
nhiều khúc, bị mổ ruột, thậm chí bị lột da đầu, nhưng chẳng có gì ghê tởm hơn
là nhìn thấy tên du kích đang cầm hai cái răng vàng, mặt hắn rạng rỡ.’”[xi]
Khủng bố bao giờ cũng cần
những hiệu ứng gây khủng khiếp để đạt tới những ý định của nó. Những cuộc tập
kích nhỏ bé không đủ sức lay chuyển tâm lý và tinh thần chiến đấu của địch
quân. Lính Mỹ cần phải nhận rõ được thông điệp rằng họ không thể nghĩ đến khả
năng bị bắt làm tù binh, mà họ phải đối diện với một kẻ thù không bắt sống ai
làm tù binh cả. Cả điều này cũng đã được Việt Minh tiến hành trong những năm
50. Peter Scholl-Latour trong quyển “Cái chết trên ruộng lúa” đã thuật lại việc
nhìn thấy các xác chết không toàn thây của ba công binh Pháp bị Việt Minh thả
trôi sông ở Hải Phòng năm 1946[xii]. Những người Mỹ bị tách rời khỏi đơn vị
trong lúc bị phục kích đều bị tra tấn và chặt chân tay. Để dọa nạt, khủng bố
tinh thần những người lính khác, thân thể họ được mang ra trưng bày ra ở một
nơi dễ nhìn thấy – bị lột da, mổ bụng, bị chặt tay, chặt chân, bộ phận sinh dục
bị cắt mất. Báo cáo về những vụ việc này trong thập niên 1960 nhiều cho tới mức
không thể gọi đó là những hành động riêng lẻ[xiii]. Người cộng sản không bắt tù
binh Mỹ, ngoại trừ phi công. Thậm chí khi quay trở lại vào đêm hôm sau để lấy
xác đồng đội, họ bắn chết tất cả những thương binh Mỹ còn nằm lại đó. Những việc
này đã được tường thuật trong nhiều hồi ký, ví dụ như trong “We were soldiers
once… and young” của Harold G. Moore và Joseph L. Galloway.
Tất cả những điều đó cho
thấy khủng bố là một chiến lược của người cộng sản. Khủng bố để đe dọa tinh thần,
gây sợ hãi nhằm thống trị số đông, để giành dân, giành đất, giành ảnh hưởng, cố
gắng làm mất tinh thần chiến đấu đối phương càng nhiều càng tốt. Chiến tranh
nào cũng xảy ra tội phạm chiến tranh, không chỉ trong cuộc Chiến tranh Việt
Nam. Nhưng đó là những hành động riêng lẻ của một vài người, một vài đơn vị
trong những tình huống ngoại lệ. Chiến tranh du kích thì ngược lại, lấy sự khủng
bố làm một chiến lược để bù đắp lại cho thế yếu của mình. Cuộc chiến tranh Việt
Nam ở đây không phải là ngoại lệ.
———–
[i] Wagner, Klaus: Vietnam in jenen Tagen …, R. G.
Fischer Verlag, Frankfurt, 1992, trang 158 – 160.
[ii] Nonnemann, Heimfried–Christoph: Chúng tôi không
hỏi họ từ đâu đến, Phan Ba dịch, CreateSpace Independent Publishing Platform,
2014, https://phanba.wordpress.com/chung-toi-khong-hoi/
[iii] Báo LIFE, số tháng 1 năm 1952
[iv] Greiner, Bernd: Krieg ohne Fronten – Die USA in
Vietnam, Verlag des Hamburger Instituts für Sozialforschung, Hamburg, 2013,
trang 47.
[v] Greiner, Bernd: Krieg ohne Fronten – Die USA in
Vietnam, Verlag des Hamburger Instituts für Sozialforschung, Hamburg, 2013,
trang 48.
[vi] Báo Spiegel số 7/1968 ( http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-46135625.html
) bản dịch của Phan Ba: https://phanba.wordpress.com/2017/02/02/nhung-toi-pham-dung-cam/
[vii] Trích dẫn theo James S. Robbins, This time we
win – Revisiting the Tet offensive, 2012, trang 146.
[viii] Việt Cộng cũng gây tội ác (https://www.nytimes.com/2017/12/19/opinion/vietcong-generals-atrocities.html
), bản dịch của Phan Ba: https://phanba.wordpress.com/2018/01/05/viet-cong-cung-gay-toi-ac
/
[ix] Huỳnh Phi Long và trận đánh nhà hàng Mỹ Cảnh: https://phanba.wordpress.com/2017/06/25/huynh-phi-long-va-tran-danh-nha-hang-my-canh/
[x] Max Hastings: Vietnam – An epic tragedy,
1945-1975, HarperCollins Publishers, New York, 2018, trang 22
[xi] Max Hastings: Vietnam – An epic tragedy,
1945-1975, HarperCollins Publishers, New York, 2018, trang 23
[xii] Peter Scholl-Latour: Der Tod im Reisfeld,
Deutsche Verlags-Anstalt, Stuttgart, 1979, trang 43. Bản dịch của Phan Ba: https://phanba.wordpress.com/cai-chet-tren-ruong-lua/
[xiii] Greiner, Bernd: Krieg ohne Fronten – Die USA
in Vietnam, Verlag des Hamburger Instituts für Sozialforschung, Hamburg, 2013,
trang 51.
No comments:
Post a Comment