Ký
sự: Quân trường – Thao tập (Phần 3)
Trần
Tỉnh Lê
29/04/2021
https://baotiengdan.com/2021/04/29/ky-su-quan-truong-thao-tap-phan-3/
Tiếp theo
PHẦN 1 : Khăn gói quả mướp
tòng quân
PHẦN 2 : Những chặng quân hành
***
PHẦN
3 : Đồng đội thời binh lửa
Từ khi gia nhập quân ngũ tôi mới hiểu hơn hai
chữ “đồng đội”, tiếp đó biết thêm về ngôn từ “đồng chí”. Và, mãi sau này lại hiểu,
biết kỹ hơn về tình “chiến hữu, thân hữu” cùng các mối liên hệ máu thịt, sống
chết của các thực thể, được gọi là Con Người có liên đới, liên quan hữu trách
theo tháng năm, thế sự.
Xin được ghi, chép lại và giới thiệu với độc
giả thân thương vài kỷ niệm về “đồng đội”.
Tôi không có may mắn được sinh ra khi đất nước
ta có hòa bình. Ngay từ khi 2 tuổi đã “đụng độ, nếm trải, suýt chết” vì chiến tranh.
Mãi khi lớn lên có dịp đọc, sưu tầm lịch sử mới biết là binh lực từ núi rừng Việt
Bắc của hai ông Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh mở chiến dịch năm 1952, với mưu đồ
đánh, chiếm thị xã Vĩnh Yên để di, dời ATK (An Toàn Khu), thủ phủ của Việt Minh
từ Tân Trào, Tuyên Quang về đây. Nhưng đã thảm bại trước sự phản kích của quân
đội Pháp, mà gia đình tôi và nhiều xóm làng xung quanh đã bị hứng chịu cảnh đạn,
bom ly tán.
Hai mươi năm sau, vào mùa hè năm 1972, cũng đã
lặp lại ý đồ này của Trung ương Cục (R) với sự chỉ đạo của Lê Duẩn từ Hà Nội muốn
đánh chiếm thị xã An Lộc để dựng lên thủ phủ (R) cũng thất bại. Tuổi thơ tôi
không có “đồng đội” nên đến khi vào quân ngũ mới biết đến nó. Xin độc giả đừng
dễ lầm tưởng là cứ ai được xếp sắp, biên chế trong một hàng ngũ, đội hình nào
đó, thì được coi là “đồng đội”?
Đồng đội mà buổi sơ khai, tôi cảm nhận được đó
là Trần Trọng Khiết. Khiết hơn tôi 3 hay 4 tuổi, có quê quán ở tận Đoan Hùng,
Phú Thọ, địa danh mà tôi chưa từng đặt chân đến bao giờ. Chỉ nghe dân gian truyền
miệng, nơi ấy cảnh đẹp và Đoan Hùng có vật sản quý là loại bưởi ngon lắm, mà
tôi vẫn mơ một ngày nào đó được đến thăm.
Khiết có chiều cao khiêm tốn khoảng 1 mét 62,
người đậm sức, nước da khá trắng trẻo của một chàng trai ở vùng có rừng cọ, đồi
chè bên dòng Lô Giang, nước trong xanh đã qua vạn, triệu năm soi bóng, núi biếc
với bạt ngàn rừng thẳm. Dòng sông này bắt nguồn từ nhiều thác, ghềnh, suối nhỏ
của núi rừng Việt Bắc chảy đến, tạo thành nơi giao hòa của ngã ba Bạch Hạc gồm:
Lô Giang (nước xanh) – Hồng Hà (nước đỏ) với Sông Đà (nước nhạt nhòa) mà trước
đây mấy ngàn năm Vua Hùng đã xây cất Hoàng Thành và chọn nơi ấy là thủ phủ “nước”
Văn Lang. Dưới làn nước biếc của Sông Lô còn tiềm ẩn trong các hang đất, hốc đá
một loài cá Anh Vũ ngon tuyệt vời. Tương truyền loài cá này chỉ là để dành cung
phụng bữa ăn hay tiệc tùng cho các đời Vua Hùng Vương.
Khiết là con trai một của gia đình nông dân
nghèo, nhập ngũ trước tôi hai khóa đã được phong hàm Hạ sĩ, cấp trên phân nhiệm
chức Tiểu đội phó và giữ lại để tiếp huấn luyện đợt này. Có lẽ trình độ học vấn
khoảng lớp 4, nên viết chữ rất xấu. Tuy nhiên, Khiết cư xử với tất cả anh em từ
cách sinh hoạt chỗ trú quân đến các nơi thao tập và cả thời gian vượt Trường
Sơn, băng Đồng Tháp vào đến chiến trường tham gia một số trận mạc cùng tôi, đã
lưu lại đúng ý nghĩa của tình “đồng đội”.
Và, rồi suốt mười năm chiến cuộc tang thương,
tôi còn gặp thêm vô số các đồng đội khác. Có người vài ba năm rồi vĩnh viễn lìa
xa như viên Trung đội phó Nguyễn Khánh Toàn (Phú Thọ), Út Chiến (Bến Tre), Ngô
Văn Khả (Thanh Ba), Nguyễn Đình Chiến (Yên Lãng), Nguyễn Văn Môn (Văn Tiến),
Năm Sơn (Thạnh Phú). Tám Ngọt (Mỹ Tho), Tư Toa (Long An), Ngô Nhật Hồng (Phú Thọ)
Hai Tùng (Bến Tre)… Cũng có kẻ vừa mới cùng nhau chia lửa đạn được ít phút đã
vĩnh biệt như Nguyễn Văn Sôn (Hải Dương), anh Xuân Bổ cởi áo băng vết thương
cho tôi lúc quá nguy nan …
Có đồng đội sau hơn cả mười năm mới lại gặp
nhau, trong một chuyến quân hành ngược lối như Đại úy Hoàng Đạc (Đồng Văn), người
chỉ huy cũ của đoàn pháo binh Biên Hòa, đã tham gia trận pháo kích lỡ, lạc vào
trường Tiểu học Cai Lậy giết chết nhiều trẻ thơ ngày ấy, hay Đặng Thế Khởi (Mỹ
Tho) đã cứu sống tôi nhiều phen ngoạn mục … Có lẽ không thể liệt kê hết trong
vài trăm trang giấy cùng những kỷ niệm riêng với họ. Nhưng, không viết được về
họ thì tôi cảm thấy như mình có lỗi với vong linh của người đã khuất và mối nợ
thâm sâu với những người còn sống.
Sau suộc “tao ngộ, đụng độ” với biệt kích của
địch quân ở rừng Bắc Trang (Long An) vào đêm đầu tháng 10-1969. Phải công nhận
tài trí, điều binh, ứng biến của hai vị chỉ huy, Ba Hẫm và Hai Trường là tuyệt
chiêu. Chỉ ít số đồng đội trên một vài xuồng trúng đạn chết và bị địch quân bắt
sống. Còn lại hầu hết là hơn 300 binh sĩ đã “xuyên qua” lửa, đạn “chọc thủng” mấy
vòng vây địch quân di chuyển đến nơi “tập kết” an toàn, thật phi thường, từng ấy
binh sĩ đã hành quân sang tận bên kia con đường “tử lộ 4” đến ém quân sát nách
thị xã Mỹ Tho. Nơi trú đóng gồm ba xã: Bình Trưng, Hữu Đạo, Kim Sơn thuộc huyện
Châu Thành, cận kề ngay “trước mặt” Bộ tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh của phía địch
quân.
Hai trận đánh nghi binh được mở màn vào đêm 6
tháng 11 “pháo kích” cối 81mm vào đồn Mỹ Long và đêm 8.11 phục kích bằng súng hỏa
lực mạnh B40 và B41 bắn vào xe cơ giới trên quốc lộ 4 giữa ranh giới xã Dưỡng
Điềm tiếp giáp khu pháo binh ở Long Định. Bị tấn công bất ngờ với các loại vũ
khí “hạng nặng” đã “thổi bùng khói lửa” đạn bom, chết chóc trên toàn bộ chiến
trường được mệnh danh là “vùng 20 tháng 7” kể từ sau chiến dịch Mậu Thân – 68.
Đại đội 1 đóng quân án ngữ bảo vệ Ban chỉ huy.
Nhưng, đã bị lộ để cho các binh sĩ “ba sẵn sàng” mỗi chiều kéo ra quán tiệm “Chạp
khô” của ông Hai Lướt mua đồ ì, xèo. Phía địch quân đã nhận định, tiên đoán được
mối hiểm họa đang tàng ẩn quanh đây, nên họ đã mở các trận oanh kích bằng pháo
binh và phi cơ liên tiếp vào những khu rừng đáng nghi ngờ.
Hai ngày liên tiếp sau đó, chúng tôi lại phải
chui, rúc trong công sự đội bom, pháo, chiến đấu cơ của địch quân bắn phá, càn
quét xung quanh xã Bình Trưng. Chiếc bồng dã chiến của tôi bị trúng đạn, bom bi
nên bị rách nát bươm và không còn quần áo lành lặn để thay mặc. Vậy, mà vẫn còn
may mắn là cuốn Nhật Ký nhỏ bé, thân thương và thân thể tôi không bị trúng một
mảnh đạn, bom nào.
Đơn vị bắt đầu mở chiến dịch đánh lớn, như tập
kích đồn Cả Mít (15 – 17.11). Phục kích trên cánh đồng Long Khánh, Long Tiên
(18-11-1969). 37 tử trận và mấy chục binh sĩ khác thương vong. Hình ảnh ghi đậm
nét trong tâm trí là lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy sự chết chóc mịt mờ cảnh
đêm tối, ghê rợn. Người chết hầu hết chưa ai kịp nhắm mắt, họ được quy tập lại
nằm ngổn ngang trên một bờ kênh nhỏ. Dưới làn đạn đại pháo địch vẫn bắn vu vơ,
loạn xạ và ánh pháo sáng trong cơn mưa vẫn rả rích.
Tôi nhìn rõ những đồng đội thân quen như Ngô
Văn Khả, Nguyễn Văn Ngôn, bị trúng đạn AR15 bắn từ trước ngực ra phía sau chưa
xuyên qua được. Viên đạn ghim chặt vẫn nhú ra một khúc trên thân xác. Thật ghê
rợn bởi một mình tôi phải ở lại đợi chờ các xuồng, ghe chở dần tử sĩ đi phân
tán, chôn cất. Các thi thể
đều trần trụi mặc mỗi chiếc quần đùi. Bởi “mật lệnh” xung trận quy định
là như thế. Họ được “khâm liệm” bằng một tấm nilon không có số quân hay để lại
tên, tuổi, quê quán. Ngay cả nơi chôn cất (thực chất là nhanh chóng mang đi
vùi, dập để phi tang) cũng phải giữ bí mật nên ít ai được biết đến.
Mười ngày sau, trận vận động chiến ở Kim Sơn,
Vĩnh Kim (28-11) thêm gần 30 tử sĩ. Trận đánh đó, ngay từ lúc khai chiến đã bị
pháo binh địch “dọn bãi” khốc liệt. Ngôi nhà cũ của dân chúng vừa bị bom, pháo
thiêu rụi, còn trơ chiếc “trản xê = tăng xê” lộ thiên. Hàng chục binh sĩ chen
nhau ẩn, náu trong đó.
Khi nhường chỗ cho Khiết và Nhâm thì tôi bị lọt
ra ngoài, không thể cố “chêm thêm” vào được nữa. Ngồi cửa miệng hầm, một mình
tôi “đội” không biết biết bao đợt đạn đại pháo. Khi lệnh xung phong, xuất kích
tất cả phải lao ra ngoài cánh đồng trống trải, chịu biết bao làn đạn từ bộ
binh, phi cơ địch xả xuống mà Trời thương, Phật độ, tôi vẫn không bị trúng một
miểng đạn nào.
Còn hai đồng đội là Trần Trọng Khiết, Tạ Quý
Nhâm (Nghĩa Hưng) vĩnh viễn nằm lại nơi này. Khiết bị trúng một hỏa tiễn của
AH1 “cá lẹp” gần như cháy, nát toàn thân. Nhâm lĩnh trọn trái M 79, lảo đảo, gục
gã từ trên bờ mẫu lao đầu xuống ruộng còn giãy giụa, phía đầu vẫn nổi lên những
bọt nước sùng sục. Lần lượt hàng trăm chiến binh khác như Năm Sơn, Út Chiến…
cũng vĩnh viễn trở về cát bụi. Xuân Thủy (Yên Đồng) không biết bị trúng đạn vào
đâu, mà toàn thân anh run lên bần bật, thở rốc trước khi lịm đi. Anh chết trong
trận đánh ở xã Hậu Mỹ Nam, ngay bên cạnh và tôi cũng bị thương trận ấy là lần
thứ 3.
Chiến tranh, viết về chết chóc mãi cũng nhàm
thật. Vào một lần nào đó, tôi nghe được người dân họ nói “các chú bộ đội chết
đã quen rồi”. Nhưng, mấy ai hiểu được sự cay đắng, mỉa mai và chua chát ấy.
“Chết là hết, chết là đại họa của một đời người, làm sao mà quen được”.
Sở dĩ, tôi muốn viết chủ đề “Đồng Đội” trước sự
kiện “chiến thắng 30-4-1975” để tự nhắc nhở mình và những ai còn sống. Đặc biệt
là những cựu chiến binh cần minh định lại trách vụ của mình trước những vong
linh đồng đội đã khuất, cùng vô vàn những hy sinh của thân nhân, đồng bào, dân
tộc, đất nước mình mà vẫn chưa tròn trách nhiệm: “Giành được độc lập, tự do cho
Tổ Quốc”. Hãy nên, cùng nhau tự vấn mình!
Tôi tin hầu hết những “Liệt sĩ” họ vẫn đinh
ninh nghĩ rằng, chết cho tương lai tốt đẹp của các thế hệ mai sau. Nhưng, cuôc
nội chiến kết thúc đến nay đã 46 năm. Hàng chục triệu người chết, thương vong:
Đất nước vẫn chưa hề có một ngày độc lập: Biển, đảo, đất biên cương vẫn mất vào
mưu độc, kế hiểm của những kẻ là “đồng chí Phương Bắc” xâm lấn, chiếm cứ lên đến
hàng triệu km2.
Nhìn sang đảo quốc nhỏ bé như Đài Loan, Nam
Hàn, họ chưa hề mất một tấc đất, biển, đảo nào cho ngoại bang, kẻ thù. Mặc dù,
bị băng đảng Cộng sản đe dọa chiến tranh đêm, ngày (24/24) suốt hơn nửa thế kỷ
qua, đất nước họ vẫn an bình và khoa học, đời sống người dân của họ luôn phát
triển rực rỡ. Nhân dân cả nước ta chưa ai thực sự được tự do, toàn cảnh xã hội
Việt Nam vẫn bị một hệ thống cai trị như trong ngục tù mà một số chóp bu bạo
quyền Cộng sản đang ngông nghênh như những tên “Cai ngục + quản giáo”.
Viết về “Đồng Đội” tôi khó có thể quên Dương
Chiến Đoàn. Sinh năm 1952, nhập ngũ và vào Nam 1969, như vậy là Đoàn ở tuổi 17
đã gia nhập quân đội? Nhờ thân hình phát triển nhanh, cao lớn, vạm vỡ nên các
trận chiến, cậu ấy tung hoành dọc ngang, xông xáo. Và, bởi chung quê, chung
nghĩa tình nên Đoàn đề nghị được kết nghĩa cùng tôi và Nguyễn Minh Đức, chọn bí
danh theo họ của tôi là Lê Hiếu Trung.
Từ những năm 1970-1972, chiến tranh càng trở
nên khốc liệt. Ba “đồng đội” (Lê Hiếu Tử – Lê Hiếu Trung và Lê Hiếu Nghĩa)
chúng tôi kết thân nhau hơn. Bởi, cũng cùng thoát chết nhiều phen trong tấc
gang. Tôi nhớ một buổi sáng tinh sương vào một ngày hè tháng 9 năm 1970, chúng
tôi trú đóng ở Ấp 7 xã Long Trung (Cai Lậy). Hôm trước tất cả đều đã biết “bếp
ăn” tập thể không còn tiền và thức ăn gì nữa, ngoài một chai nước mắm cũng sắp
cạn kiệt. Hơn chục binh sĩ chưa biết sẽ ăn uống, sống thế nào vào ngày mai.
Dương Chiến Đoàn sốt sắng rủ tôi và Ba Hò
(Thanh Hòa – Cai Lậy) đi ra cánh đồng, bờ mẫu phía Ấp 9 giáp gianh Ấp 11 (Long
Trung) để hái rau má (Loại rau cỏ, tập tàng) mọc lan phát hai bên vệ các bờ ruộng
để mang về ăn với nước mắm “kho quẹt”. Sáng sớm hôm ấy, trời còn mờ hơi sương
mù mịt, lần theo hai bên lõng nhỏ, lối đi cây cối um tùm, phủ kín cả trước mặt,
phía sau. Tôi mang theo một túi nilon khá lớn. Bên hông lúc nào đi đâu cũng có
thói quen, mang theo hai trái lựu đạn M26, đi ngay sau kế Đoàn, Đoàn mang theo
khẩu AR15 với hai băng đạn. Hò đi sau cùng nên tôi không biết có mang theo gì nữa.
Đi ra khỏi chỗ ngủ chưa đầy 200 mét. Mỗi chúng
tôi đi cách quãng nhau vài bước. Bỗng nghe tiếng “Phơộợụ”, nhìn thấy Đoàn gục
xuống, tôi vẫn ngơ ngác thì những tiếng súng nổ liên thanh vang trời, dậy đất.
Khói bay mịt mù quyện vào hơi sương, khiến mùi khét lẹt của đạn thêm đậm đặc.
Ngồi xuống, xiết cò súng hết một băng đạn rồi Đoàn té tạt ngang sang hướng tôi.
Thế rồi cả ba rẽ tắt, cắt ngang các con đìa,
hàng cây lao về nơi ngủ vội cuốn mùng, các thứ khác nhét tất cả vào chiếc bồng
dã chiến, rồi theo nhau chạy ra bờ sông Trà Tân vượt sông sang Ấp 6. Nơi đó có
một” bệnh viện dã chiến” của Trung Đoàn 1 trú ẩn. Khi hoàn hồn mới biết Dương
Chiến Đoàn bị địch quân bắn nguyên một tạc đạn M79 trúng bụng bên phía tay phải,
khiến phần gan xưng to lên như phụ nữ có chửa đến tháng thứ 3. Đoàn bắt đầu biết
đau tấy toàn thân phải nằm điều trị luôn ở Viện này. Y sĩ, Nguyễn Quang A trực
tiếp chăm sóc tận tình vài ngày, Đoàn mới bình phục.
Sau đó, chúng tôi được biết là kế hoạch tập hậu,
đánh điểm của đội Biệt kích yếu khu Ba Dừa nhằm tiêu diệt toàn bộ nhóm chúng
tôi đang trú đóng tại Ấp 7. Nếu, hôm đó Đoàn không rủ tôi và Hò đi hái rau má
thì tất cả vẫn đang trong giấc ngủ nồng say. Chỉ ít phút nữa nhóm Biệt kích này
sẽ làm chủ trận địa và giết sạch chúng tôi ngay từ loạt đạn đầu.
Khi trúng đạn quá nặng, Đoàn quỵ xuống. Nhưng
vì khoảng cách với địch quân mang khẩu M.79 quá gần, nên viên đạn bắn ra chưa đủ
vòng xoay để phát nổ. Vì thế mà nó lao thẳng vào bụng của Đoàn rồi rơi xuống đất.
Với kinh nghiệm dày dạn chiến trường, Đoàn đã phản ứng phòng vệ cấp thời bằng
cách bắn trả quyết liệt. Địch quân cũng bị phản công quá bất ngờ, ngoài kế hoạch
tác chiến của họ, nên cũng bỏ chạy tán loạn. Không biết Hò đi phía sau có kịp
ném trái lựu đạn nào không, nhưng nhiều tiếng nổ tiếp sau đó không còn khả năng
giết chết người nữa.
Khi tất cả chúng tôi đã vượt sang bên kia sông
Trà Tân thì Ấp 7 lại là nơi bị địch pháo kích cấp tập mãi đến gần 7 giờ sáng mới
tạm yên. Thật là một phen hú hồn, hú vía, nếu hôm đó Đoàn cũng ngủ như mọi người
thì kể như tất cả chúng tôi đã ngủ vĩnh viễn ở Ấp 7 xã Long Trung từ tháng 9
năm 1970 rồi.
Trận ấy, tôi đánh rơi mất tấm hình của cô gái
“đồng đội” quê Mỏ Cày, Bến Tre có tên là Thu Vân tặng trên bờ kinh Mỹ Thiện hồi
tháng 3, tấm ảnh không còn tìm lại được nữa trong nỗi lòng nuối tiếc vô biên. Mấy
ngày sau trở lại tìm mãi cũng không biết nó rơi, mất ở điểm nào trong lần thừa
chết, thiếu sống ấy.
Đồng đội Nguyễn Minh Đức (Lê Hiếu Nghĩa) bị
trúng đạn của M113, ra đi vĩnh viễn trong trận chiến ở Long Khánh – Thanh Hòa
vào đầu năm 1973. Dương Chiến Đoàn cũng ra đi để lại mình tôi, trong một trận
đánh công kiên ở bót, kinh Bà Phủ (năm 1974 ở Cả Lân, Mỹ An giáp với xã Thanh
Hưng). Đúng là nơi mà quê hương của chị Bảy Huệ đã ghi trong cuốn lưu bút của
tôi. Khi đó, không biết chị Bảy còn sống, đang lưu lạc ở phương trời nào, hay…
?
Đồng đội, Dương Chiến Đoàn của tôi lại chết thật
đau đớn, oán hờn. Đêm đó, Đoàn chỉ huy Đại đội 1 “chủ công” đánh vào lô cốt đầu
cầu với hợp đồng tác chiến, cùng các binh sĩ bò, áp sát vào hàng rào địch nằm
ém sẵn. Khi, phân đội hỏa lực DKZ 75 bắn trực xạ vào lô cốt ấy, dứt điểm 15
trái, thì sẽ giật nụ xòe bộc phá nổ tung hàng rào địch xông lên kiểm soát và
làm chủ trận địa cho các mũi khác tiếp tục đánh, chiếm.
Thật xấu số và khốn nạn, Phân đội DKZ 75 vừa
tác xạ được 13 trái thì trục trặc kỹ thuật hay súng bị hóc đạn. Nghe thấy ngưng
tiếng súng hỏa lực mạnh, Đoàn cùng đồng đội cho nổ tung hàng rào, chớp nhoáng
xông lên chiếm trọn lô cốt đầu cầu, thì bên kia khẩu DKZ cũng sửa xong, còn hai
viên đạn theo hợp đồng bắn nốt thế là “hốt trọn, xóa sổ” cả binh sĩ Đại đội 1
và Đoàn cũng vĩnh biệt tôi từ đấy. Đoàn đã không chết do đạn địch qua hàng trăm
trận mạc mà Đoàn đã phải chết vì đạn chính đồng đội của mình, mới thật oan
khiên. Trận ấy lẽ ra đã thắng thì trở thành thất bại thảm hại. Thi thể Đoàn và
các đồng đội đều bị địch quân ném xuống rạch, chảy theo con nước lớn, giòng, lềnh
bềnh trôi ra sông lớn.
Không biết linh nghiệm nào đã báo, biết cho
Đoàn sẽ chết, nên cậu ấy có viết để lại cho tôi ít dòng “di chúc và hình ảnh”
căn dặn những lời cuối khi đang ở độ tuổi 22, 23, cất kỹ trong chiếc bồng dã
chiến, mà tôi nhận và vẫn mang theo đến tận bây giờ.
Tôi còn mối nợ không những với Trần Trọng Khiết,
Dương Chiến Đoàn và hàng ngàn, vạn, lớp lớp đồng đội đã nằm xuống mà khi nhắm mắt,
trút hơi thở cuối cùng, họ vẫn mang hơi ấm trong tâm nguyện: “Độc Lập cho Tổ
Quốc – Tự Do cho mỗi Con Người”. Vậy, mà đã 46 năm nay vẫn chưa thành sự thật. Tôi
còn mang nợ nhiều, nhiều lắm với đồng bào của tôi mà hơn 30 năm qua sám hối,
đáp đền vẫn chưa đặng.
Gánh nợ ấy vẫn luôn canh cánh bên lòng. Rất
mong được độc giả, người yêu nước, những ai cùng chung chính kiến và các cựu
chiến binh cả hai phía, hãy góp thêm bàn tay, chia sẻ gánh vác mối nợ chung cho
quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta sớm trở thành vườn hoa Tự Do – Dân Chủ
và một ngày không xa sẽ đơm hoa, kết trái ngọt lành.
No comments:
Post a Comment