VAI
TRÒ CỦA TQ TRONG CHIẾN TRANH VN
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=227419125802905&id=108383691039783
Trung Quốc là một đồng minh lâu đời của chế độ
Hồ Chí Minh, đã từng giúp Việt Minh trong Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ
nhất chống Pháp. Trung Quốc đã từng gửi vũ khí, thực phẩm và cố vấn cho Đảng Cộng
sản Việt Nam và có toàn quyền để chia sẻ với họ thắng lợi Điện Biên Phủ năm
1954. Sau Cuộc kháng chiến chống người Pháp kết thúc, Trung Quốc cung cấp cho
nhà nước Cộng sản non trẻ ở Bắc Việt Nam sự giúp đỡ cần thiết để cung củng cố
chính quyền của mình và tích lũy các phương tiện cần thiết để chống lại chế độ
Sài Gòn (và người ủng hộ là Mỹ).
Đầu năm 1960, chính Trung Quốc đã cung cấp khối
lượng viện trợ lớn, kể cả vũ khí và trang thiết bị quân sự cho Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, chứ không phải Liên Xô. Vào cuối năm 1964, Trung Quốc đã cung cấp cho
đồng minh Bắc Việt Nam 457 triệu đôla trị giá hàng viện trợ (48%), trong khi
Liên Xô là 370 triệu đôla hay 40%.
Khi Cuộc chiến tranh bắt đầu leo thang năm
1965, Trung Quốc tiếp tục là nước dẫn đầu về viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Theo đánh giá của Liên Xô, từ năm 1955 đến 1965 Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa đã cung cấp cho Việt Nam 511,8 triệu rúp viện trợ kinh tế (khoảng 569 triệu
đôla). Trong tổng số này, 302,5 triệu rúp (336 triệu đôla) được cung cấp dưới dạng
các khoản viện trợ.
Mặc dù năm 1968 Trung Quốc để mất vị trí đứng
đầu trong việc viện trợ, nhưng họ tiếp tục cung cấp một khối lượng lớn viện trợ
cho Bắc Việt Nam. Chẳng hạn, Bắc Kinh là nguồn cung cấp chủ yếu ngoại tệ mạnh
cho Mặt trận Giải phóng Dân tộc. Năm 1966, Trung Quốc gửi cho Việt cộng 20 triệu
đôla, năm 1967 khoản viện trợ này lên đến 30 triệu đôla. Và Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa tiếp tục cung cấp thực phẩm và vũ khí cho Bắc Việt Nam.
Không kém phần quan trọng, là việc Trung Quốc
tiếp tục duy trì sự có mặt quân sự trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các
đơn vị quân đội Trung Quốc được triển khai ở một số tỉnh Bắc Việt Nam theo một
hiệp định được bí mật kí giữa hai nước vào năm 1965. Quy mô lực lượng này được
đánh giá ở mức từ 60.000 đến 100.000 người vào giữa năm 1967. Phần lớn lực lượng
này là các đơn vị “kỹ sư đường sắt”hay các đơn vị “kỹ sư thông thường”cũng như
các đơn vị hỗ trợ quân sự. Nhưng cũng có một số quân chính quy chịu trách nhiệm
về phòng không của các tỉnh phía Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngoài ra, Trung Quốc còn phân ba trung đoàn
máy bay chiến đấu MiG-17 bảo vệ lãnh thổ Bắc Việt Nam chống lại sự xâm nhập có
thể xảy ra của máy bay Mỹ. Những trung đoàn đầu tiên của Trung Quốc được đưa tới
Bắc Việt Nam năm 1965. Việc triển khai quân đội Trung Quốc này đã cho phép Bắc
Việt Nam, sau khi Mỹ đưa quân đến miền Nam Việt Nam, tập trung quân chiến đấu tại
miền Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong khi đó các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam hiểu
rõ rằng sự có mặt của quân đội Trung Quốc chứa đựng nguy cơ về sự phụ thuộc lớn
vào Bắc Kinh, đặc biệt là vì số lượng quân Trung Quốc và quân Việt Nam tại các
tỉnh Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gần như tương đương. Hà Nội phản đối những lời
đề nghị của Trung Quốc gửi thêm quân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tới lãnh
thổ Việt Nam.
Những nhân tố khác xác định vị thế mạnh mẽ của
Trung Quốc tại Bắc Việt Nam: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phụ thuộc vào sự cộng
tác của Trung Quốc để có sự viện trợ từ các nước khác, kể cả Liên Xô. Bởi vì khối
lượng lớn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa khác phải đi qua lãnh thổ Trung
Quốc (theo một nguồn tin Trung Quốc, mỗi tháng từ 8 tới 9 ngàn tấn hàng hóa được
chuyển tới Việt Nam Dân chủ Cộng hòa qua ga đường sắt ở Pinhxiang. Hà Nội phải
thận trọng để không bị cắt đứt kênh phân phối này bằng cách không làm hỏng mối
quan hệ với “người láng giềng khổng lồ phương Bắc”. Và chắc chắn sự gần gũi về
mặt địa lý đã đóng một vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa hai nước, vì
Trung Quốc là người hàng xóm bên cạnh của Bắc Việt Nam.
Tuy nhiên sự gần gũi về mặt địa lý và sự viện
trợ của Trung Quốc hẳn đã không thể có tầm quan trọng như vậy đối với các nhà
lãnh đạo Bắc Việt Nam, trừ phi cũng có sự liên hệ gần gũi về ý thức hệ giữa Bắc
Kinh và Hà Nội. Các nhà cộng sản Việt Nam chia sẻ với những người đương nhiệm
Trung Quốc quan điểm về cuộc xung đột ở Đông Nam Á và về tình hình quốc tế, về
vai trò của Phong trào cộng sản trên thế giới và về những Cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, về việc giảm tình trạng căng thẳng và về những triển vọng của sự
chung sống hòa bình giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Thái độ ủng hộ
Trung Quốc mạnh mẽ phổ biến trong các nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Trong khi các chính trị gia, những người thông
cảm với Liên Xô đã bị cách chức trong giai đoạn bất hòa giữa Mátxcơva và Hà Nội
vào đầu những năm 60, thì những nhà lãnh đạo có xu hướng ủng hộ Trung Quốc đã đủ
mạnh để vượt qua thiên hướng của một số Ủy viên Bộ Chính trị Việt Nam về cách
tiếp cận được chia sẻ đồng đều hơn đối với hai đồng minh. Xu hướng này đã được
thể hiện trong sự tuyên truyền tương đối phong phú của Trung Quốc ở Bắc Việt
Nam.
Trong khi đó việc tuyên truyền của Liên Xô chỉ
giới hạn ở những cuộc triển lãm và những bộ phim được chiếu trong dịp những
ngày lễ lớn. Những chiến sĩ chống Liên Xô của Trung Quốc vẫn tiếp tục, mặc dù
có những phản đối mạnh mẽ của Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội. Các nhà ngoại giao
và các quan chức khác của Trung Quốc được hưởng nhiều tự do hơn so với các đồng
nghiệp Xô Viết.
Các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
liên tục đến Bắc Kinh để xin ý kiến Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai về những vấn đề
quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhìn
chung, theo một kết luận không lấy gì làm dễ chịu của Đại sứ quán Liên Xô ở Hà
Nội: ở miền Bắc Việt Nam hiện nay có nhiều sự thông cảm đối với Trung Quốc hơn
là đối với Liên Xô.
Những người Xô Viết theo kịp với những diễn biến
trong các mối quan hệ Bắc Việt Nam-Trung Quốc. Họ để ý đến mọi dấu hiệu của sự
bất hòa đó cho những lợi ích riêng của họ. Mátxcơva đầu tiên nhận được những dấu
hiệu như vậy từ năm 1965 qua báo cáo của các nhân viên ngoại giao và các nhà
báo về sự phật ý đang tăng lên ở Hà Nội với chính sách của cộng sản Trung Quốc.
Theo báo cáo này, các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam đã bắt đầu nghi ngờ về những mục
đích đầu tiên của Bắc Kinh ở Đông Nam Á.
Sự thay đổi thái độ của các nhà lãnh đạo Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa có thể giải thích bằng những diễn biến mới trong các mối
quan hệ giữa Liên Xô và Bắc Việt Nam. Hợp tác với Mátxcơva sẽ tạo cho Hà Nội một
cơ hội để thoát khỏi sự bảo trợ quá đáng của Trung Quốc và có một vị trí độc lập
hơn trong quan hệ giữa Bắc Việt Nam và Bắc Kinh. Mặc dù sự chuyển hướng này
trong chính sách của Bắc Việt Nam không hứa hẹn một thành công ngay lập tức với
các nhà lãnh đạo Xô Viết, nhưng Liên Xô đã sẵn sàng chiếm lấy điều đó. (1)
Riêng giai đoạn 1965-1968 TQ gửi 320 000 người
gồm binh lính, công nhân và kỹ thuật viên tới VN để xây dựng đường xá, hỗ trợ hậu
cần, và cố vấn quân sự. TQ cũng hỗ trợ 30 000 xe vận tải để chuyên chở 10 000 tấn
vũ khí dọc đường mòn HCM. Ngoài ra còn có các chuyên gia, cố vấn của Liên Xô, Bắc
Triều Tiên và các nước XHCN khác. (2)
Trong khi đó lượng quân Mỹ với số lượng đỉnh
điểm ở miền Nam vào năm 1969 là khoảng 550 000 người. Đến trước khi ký HĐ Paris,
tháng 1- 1973, thì quân Mỹ ở VN chỉ còn gần 25 000, tức là khoảng 5% so với lúc
đỉnh điểm và không còn tham chiến trực tiếp.
(1) trích từ Liên bang Xô Viết và chiến tranh
VN, NXB CAND
(2) trích từ Phán xét của Nguyễn Văn Hưởng,
NXB CAND
Hình : https://www.facebook.com/108383691039783/photos/a.112590957285723/227419089136242/
No comments:
Post a Comment