Hậu duệ
Bắc di cư với ngày 30/4
Khiếu
Ngọc Lam
POSTED ON APRIL 16, 2021
http://dcvonline.net/2021/04/16/hau-due-bac-di-cu-voi-ngay-30-4/
Một năm
lại trôi qua, 46 năm ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, chúng ta lại cùng nhau
“ôn cố tri tân”, tri ân, tưởng niệm và cầu nguyện tại gia, hay tại các trung
tâm sinh hoạt cộng đồng và tôn giáo nếu không có dịch COVID-19.
Một chiếc xe tăng của
Chính phủ Cách mạng Lâm thời (PRG) tiến vào cổng Phủ Tổng thống ở Sài Gòn ngày
1 tháng 5 năm 1975. Ảnh AP / Frances
Starner
Vâng, thấm thoát đã gần nửa thế kỷ trôi qua,
nhưng ký ức của những thế hệ trưc tiếp sống trong cuộc nội chiến Bắc-Nam giữa
hai chiến tuyến quốc-cộng vẫn đậm nét và đôi lúc hiện về như một cuốn phim được
quay lại mỗi lần tháng 4 đến.
Tôi vẫn thường nghe thân phụ mình kết luận như
sau khi kể về cuộc đời của ông với hai cuộc “vượt tuyến nhỏ chín nút” (năm 54)
và cuối cùng là cuộc “di cư lớn mười nút” hay “di cư bù” (năm 91), “Thật
là khốn nạn cho dân Việt mình!”
Vâng, lời kết luận của ông cũng là lời kết án
chính xác về thủ phạm đã gây nên sự khốn nạn đó cho dân tộc chúng ta.
Đất nước Việt nam đã xuất
hiện một lũ ngu muội, dốt nát, hèn mạt, mà lại quỷ quyệt, gian manh, ác độc gây
bao điêu linh, chết chóc, khổ đau và bất hạnh cho dân tộc Việt nam từ nhiều thập
kỷ qua! Bao con người, bao tuổi thanh xuân, bao ước mơ, bao nguyện vọng chính
đáng của một dân tộc đã bị chôn vùi và hủy diệt.
Ngày nào lăng Ba Đình còn sừng sững, màu cờ
máu còn phất phới, và bè đảng cộng sản còn hiện diện trên quê hương này thì người
dân sẽ còn khốn khổ khốn nạn lâu dài. Tệ hơn nữa, người dân đang đứng trước viễn
cảnh mất chủ quyền hoàn toàn, trở thành nô lệ bị hành hạ, tù đày, giết chóc, và
cuối cùng là bị diệt vong như nhóm người theo Pháp luân công, dân Tây Tạng, hay
Uyghuir dưới ách cai trị của Trung cộng!
Mọi người và tôi đã từ lâu vẫn nghe cụm từ
“hoà hợp hoà giải dân tộc” từ loa tuyên truyền của Việt cộng, từ trong nước ra
đến hải ngoại, dưới nhiều hình thức lừa đảo tinh vi với mong mỏi “khúc ruột
ngàn dặm” (mà nhiều năm trước kia đã bị cắt lìa) đóng góp và giúp sức cho bọn
chúng không phải để hoàn thành trách nhiệm của những nhà lãnh đạo trong một quốc
gia với dân số xấp xỉ 98 triệu, mà để củng cố thêm địa vị với bổng lộc lấy từ
xương máu của người dân, tài nguyên, đất đai và biển đảo của tổ quốc!
Cho nên mỹ từ “hòa hợp hoà giải dân tộc” để
tái xây dựng sau chiến tranh và bảo vệ non sông gấm vóc của tiền nhân, đem lại
tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc cho người dân có là sự thực tâm sám hối của cộng
sản?
Câu trả lời đã nằm trong lòng của chúng ta,
ngay cả trong lương tâm sâu thẳm của những vị đã từng bị lừa bịp và mê muội trước
hai từ “giải phóng”, giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ thực dân Pháp, ra khỏi
cảnh làm tay sai cho đế quốc Mỹ! (Ấy đấy, bởi vì sau gần một thế kỷ bị lầm than
trong cảnh làm thuộc địa của mẫu quốc Pháp, toàn dân ta đều một lòng ủng hộ cuộc
kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp. Công lao của toàn dân trong đó có những
người yêu nước thuộc đảng phái quốc gia đã bị cộng sản cướp sạch một cách bỉ ổi,
đê tiện, và dã man như hai người chú và anh rể của thân phụ tôi trong Đại Việt
Quốc Dân đảng kẻ bị tù tội người bị thủ tiêu! Còn đế quốc Mỹ ư? Họ có cắt miếng
đất nào của Việt Nam để lấy phần không hay cộng sản từ lâu đã coi Trung Hoa và
Việt Nam là “núi liền núi, sông liền sông” để rồi không còn biên giới giữa hai
nước?
Bài ca hữu
nghị Việt Nam - Trung Hoa
Bài ca hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa. Sáng Tác:
Đỗ Nhuận | Chương trình giao lưu hát đối trên sông Móng Cái 2016. Nhà Hát Ca,
Múa, Nhạc Dân Gian Việt Bắc. YouTube
Câu trả lời ấy đã ẩn hiện từ lâu khi bộ mặt thật
của nhận vật “ra đi tìm đường cứu nước” và bè lũ tham tàn dần lộ sau cải cách
ruộng đất để làm thành sự thúc đẩy cho cả triệu dân Bắc kỳ đành bỏ nơi chôn rau
cắt rốn, nhà cửa, ruộng vườn, tài sản để chạy lấy thân vào miền Nam tươi đẹp
năm 1954! Bộ mặt ấy càng lộ rõ sau Tết Mậu Thân 1968 với xác chết của hàng ngàn
thường dân vô tội trong các mồ chôn tập thể. Xác đứng, ngồi, nằm vì bị trói rồi
chôn sống, bị bắn hay đập vỡ sọ, bị nổ mìn hàng loạt với dây điện xâu dính người
này với người kia! Bộ mặt ấy không ngừng phơi bày với các cuộc khủng bố của bọn
đặc công cài đặt và sự giúp sức của bọn nằm vùng khắp nơi trên quê hương miền
Nam, vùng đất tưởng được thanh bình khi ranh giới quốc-cộng đã được thiết lập từ
sông Bến Hải. Nhà hàng Mỹ Cảnh với những người khách đang ngồi thưởng thức bữa
ăn ngon năm 1965, đêm lửa trại liên trường tại Quy Nhơn tổ chức tại Sân Vận Động
thị xã với học sinh đang hăng say sinh hoạt năm 1972, trường tiểu học Cai lậy với
những học trò hồn nhiên đùa vui trong sân trường năm 1974, những chuyến xe đò lục
tỉnh chở đầy hành khách bán buôn, những nông dân chất phác quanh năm quấn quít
với ruộng vườn, và nhiều không kể xiết những lương dân đã bị việt cộng tàn sát
bằng mìn, lựu đạn, súng cối, dao găm, búa rìu để bỗng chốc tan xương nát thịt
và cuộc sống an bình bị đảo lộn. Bên cạnh đó là những cuộc tấn công liên tục
vào mảnh đất tự do từ vĩ tuyến 17 trở về Nam. Những Bình Giã 1964, Pleime 1965,
Khe Sanh 1968, Hạ Lào 1971, mùa hè đỏ lửa với Đại lộ kinh hoàng 1972, Phước
Long 1974… Rồi một tháng 3 gãy súng với sự di tản hoảng loạn của quân dân miền
Trung và 12 ngày ác liệt tại Xuân Lộc 1975 dẫn đến ngày đau thương nhất của người
dân miền Nam và của tất cả người Việt yêu tự do: Saigon thất thủ 30/4 cùng năm!
Những người di tản
lên tàu Nam Quan tại bến Bạch Đằng ở Sài Gòn khi quân đội công sản Bắc Việt tiến
về thủ đô ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ảnh: AP Photo / Matt Franjola
Bao cảnh nhà tan cửa nát, bao tang tóc, đau
thương, mất mát, hi sinh của hàng triệu con dân tộc Việt dưới bàn tay những kẻ
lạc loài mất hết sáng suốt và lương tri đi theo tà thuyết cộng sản mà quay ra
làm tay sai cho giặc phương Bắc, nhẫn tâm giết hại đồng bào, phản bội tổ quốc.
Quyển lịch mang dấu mốc 30/4/1975 sẽ mãi mãi
đánh dấu thời kỳ đen tối nhất của lịch sử Việt nam hiện đại khi bộ mặt thật của
bè lũ cộng nô lộ nguyên hình, không cần lừa mị hay che giấu!
Từ khúc quanh ấy, một nửa phần còn lại của mảnh
đất hình chữ S tiếp tục oằn oại dưới bàn tay của bọn xưng danh đi giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước! Hàng triệu quân dân cán chính của Việt Nam Cộng Hoà lại
bị đấu tố, đầy vào trại tù tập trung, bị đánh tư sản, xua đuổi đến những vùng
kinh tế mới để chết vì tra tấn, đói khát, bệnh tật, và lao động khổ sai. Hàng
triệu người dân vô tội lại bị đẩy vào cảnh mất hết nhà cửa, và tài sản đã gây dựng
bằng mồ hôi nước mắt của nhiều đời. Gia đình họ sẵn tan nát vì quốc cộng phân
ly, chiến tranh đằng đẵng, nay thêm chia lìa vì sự thù hằn của tà quyền thắng
cuộc. Trong hoàn cảnh bi thương và tương lai vô vọng, hàng triệu sinh linh đã
liều chết để ra khơi trên những con thuyền mỏng manh mặc cho hiểm nguy của tù tội,
trả thù nếu bị bắt, của hải tặc cướp bóc hãm hại, của sóng to gió lớn sẵn sàng
nhận chìm cả thuyền để xác người nuôi cá. Họ phải dời bỏ quê hương, thậm chí phải
bỏ quê hương lần thứ hai để mong tìm sự sống trong cái chết cận kề.
The Fall of
Saigon, April 30, 1975
https://www.youtube.com/watch?v=9qMysvID8lQ
Sài Gòn thất thủ, 30 tháng 4, 1975. Nguồn PennLive.com/YouTube
Thân phận của những
người trai quốc gia trong thời chinh chiến
Những người lính Việt Nam Cộng Hòa kiêu hùng,
luôn khắc ghi lý tưởng vì Tổ quốc, danh dự, và trách nhiệm. Trách nhiệm của người
trai trong thời máu lửa thật nặng nề và nhuốm đầy hi sinh. Họ đã xếp bỏ bút
nghiên, rời xa mái ấm gia đình, đặt xuống những mơ ước đẹp đẽ của tuổi xuân để
lên đường theo tiếng gọi của núi sông. Họ đã chiến đấu thật dũng cảm và can trường
trên khắp các mặt trận, từ đồng bằng đến rừng sâu, từ cao nguyên núi non hiểm
trở, đến những vùng sông nước quanh năm bùn lầy nước đọng. Mặt trận của họ
không phải chỉ là kẻ thù Bắc bộ phủ và Tàu cộng phương Bắc trước mặt mà còn là
những chiếc dao găm đâm sau lưng họ của những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma giặc hồ”,
của phong trào phản chiến mê hoặc trong và ngoài nước, của những nhiễu loạn tôn
giáo, chính trị do bọn nằm vùng giựt dây theo mệnh lệnh của cấp trên. Và họ
cũng, uất hận thay, bị ngay chính phủ đồng minh vì quyền lợi riêng đã bỏ rơi và
bán đứng, mặc cho hơn 55,000 binh lính của chính chính phủ này đã từng sát cánh
và hi sinh bên cạnh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa! Hàng hàng lớp lớp thanh
niên ra đi, đã nằm xuống hay bỏ lại một phần xương thịt để bảo vệ từng tấc đất,
vùng trời, và biển đảo của quê hương, cho sự an toàn của đồng bào miền Nam
trong suốt 20 năm!
Khi quân cộng sản Bắc Việt Nam chiến thắng lái xe
tăng đi qua, quân đội Việt Nam Cộng Hòa bại trận vứt bỏ quân phục ở Sài Gòn,
ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày thủ đô miền Nam Việt Nam rơi vào tay quân cộng sản,
kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Ảnh AP / Yves Billy
Để khi trở thành kẻ chiến bại của bên thua cuộc
vì bị bức tử, còn ở lại chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của ngày 30/4, họ đã bị
bên thắng cuộc trả thù một cách tàn khốc mà nhân loại tiến bộ không thể tìm thấy
ngay cả trong huyền thoại!
Có ai tin rằng những người lính quốc gia bị
thương đang được chữa trị trong các quân y viện lại bị lũ cộng sản mất nhân
tính xua đuổi ra đường ngay trong ngày đất nước vừa dứt tiếng đạn bom! Tất cả
sĩ quan, binh lính quốc gia sau khi đã hạ khí giới, cởi áo trận làm thường dân
ra trình diện đã bị gọi tập trung và được chính quyền mới hứa hẹn sẽ trở về với
gia đình trong vòng 10 ngày. Có ai ngờ rằng họ đã bị lừa gạt một lần nữa trong
đời! (Vâng họ đã từng tin rằng, hai phe quốc cộng dù căng thẳng đến đâu đều phải
ngưng bắn trong 3 ngày Tết cổ truyền như một thoả thuận bất thành văn, nhưng lịch
sử đã có dấu đen Mậu Thân 1968, hay hiệp định Paris 1973 mong ngày ngưng chiến
nhưng sự ngang nhiên vi phạm liên tục của cộng quân đã dẫn đến quốc hận 30/4).
Họ bị những kẻ thắng cuộc cùng dòng máu giam cầm, hành hạ, tra tấn, nhục mạ và
thậm chí cố tình giết chết bằng mìn hay súng AK. Ngày trở về có thể là vài năm,
năm mười năm, gần hai chục năm hoặc không bao giờ có ngày trở về mà thân xác
mãi chôn vùi nơi rừng thiêng nước độc! Có người trở về với thân tàn ma dại, nhà
cửa tan hoang, vợ con tứ tán, gia đình tan vỡ, nhưng vẫn phải tiếp tục cuộc sống
đau thương cho hết kiếp!
Vô số thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa là những
thân phận tận cùng của sự “vẫn phải tiếp tục cuộc sống đau thương cho hết kiếp”
bởi vì sau ngày “Bắc Nam chung một nhà” họ đã bị tước quyền “được sống như một
con người” dù họ đã mang tấm thân tàn phế. Nhiều người trong số họ không còn
nhà cửa, cha mẹ, vợ con, người yêu, tứ cố vô thân không nơi nương tựa. Hàng
ngày họ đã phải lê lết phần thân thể còn lại — một phần thân thể khác của họ đã
mất đi trong lúc chiến đấu chống giặc để đồng bào miền Nam chúng ta được vui sống!
— khắp đầu đường xó chợ để xin tình thương bố thí của tha nhân, hay bươn chải
chật vật để kiếm miếng cơm manh áo qua ngày. Sau bao năm không được sống như một
con người đúng theo ý nghĩa của nó, một số đã gục ngã trước số phận nghiệt ngã
trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Đến một ngày, khi phong trào tri ân và yểm trợ
thương phế binh Việt Nam Cộng Hoà được phát động, tình “em hậu phương, anh tiền
tuyến” và nghĩa “huynh đệ chi binh” luôn trong tâm khảm của những huynh trưởng,
đồng đội năm xưa và thân hữu của họ đã phần nào mang lại niềm an ủi và xoa dịu
nỗi đau về thể chất lẫn tinh thần của các thương phế binh còn sống sót.
Vậy mà bọn tà quyền cộng sản, trong sự thù hận
điên cuồng đã ngăn chặn và dập tắt chút hi vọng mong manh và niềm an ủi muộn
màng đến với các chàng trai đầy nhiệt huyết tòng quân năm nao nay đã là những
ông già thương tật, ốm đau, nghèo khổ và cô thế. Hình ảnh chiếc nạng và hai cái
chân gỗ của một thương phế binh ở vườn rau Lộc Hưng chạy không kịp mang theo
khi căn phòng tưởng là nơi nương náu cuối cùng của đời họ đã bị công an giựt sập
để cướp đất năm 2019 đã trở thành một biểu tượng sống động về thân phận bi
thương của các thương phế binh Việt Nam Cộng Hoà.
Thương sao những người lính quốc gia! Người sống
bị bức bách tù tội, kẻ thương phế sống như những bóng ma lây lất, mà cả những
xác thân đã bao lâu nằm yên trong lòng đất mẹ cũng không sao thoát khỏi sự trả
thù đê tiện mà chỉ cộng sản mới có thể thực hiện. Nghĩa trang quân đội Biên Hoà
của Việt Nam quốc gia với bức tượng “chiến sĩ thương tiếc” linh thiêng đã bị giựt
sập và những nấm mồ hoang lạnh bị đập phá hay bị cây cối cố tình trồng bừa bãi
san bằng không chút tiếc thương!
Thế hệ trẻ sinh sau nếu không thấy, không trải
nghiệm cuộc chiến với những khổ đau mất mát hay những năm tháng đen tối nhất của
thời hậu chiến mà thế hệ ông bà, cha mẹ họ đã chịu đựng thì họ cũng có thể thấy
những dấu tích lịch sử làm bằng chứng, những hình ảnh, những cuốn phim tài liệu,
bài viết, hồi kí, sách vở có giá trị trên các mạng xã hội không thiên tả, hay
trong các thư viện của các quốc gia dân chủ ngoài Việt nam.
Nếu họ sáng suốt không bị vỏ vật chất hào
nhoáng bọc ngoài che lấp để thấy rõ bên trong những tệ nạn, bất công, sự suy đồi
và xuống cấp về mọi mặt của xã hội Việt nam từ sau 1975 đến nay,
Nếu họ công nhận hiểm họa mất nước và diệt
vong là điều không tránh khỏi với sự ích kỉ, tham lam và yếu hèn của đảng cầm
quyền cộng sản,
Nếu họ công tâm so sánh nước Việt nam với các
nước tiến bộ khác trên thế giới, đặc biệt về tự do, dân chủ bao gồm nhân quyền
và dân quyền căn bản,
Thì chính họ sẽ tìm thấy ý nghĩa tưởng niệm
sâu xa của ngày 30/4/1975, sự tri ân sâu sắc đối với quân dân cán chính và đặc
biệt là các chiến sĩ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã từng hi sinh quên mình
cho một miền Nam, một “hòn ngọc Viễn đông” thịnh vượng, tự do phi cộng sản.
Xin mượn lời mở đầu của bài hát “Giã từ vũ
khí” của Trịnh Lâm Ngân “rồi có một ngày, sẽ một ngày” khi tất cả dân Việt dù ở
bất cứ chân trời nào đều bừng tỉnh và cùng tìm thấy ý nghĩa tưởng niệm, cùng trỗi
lên lòng tri ân đó, cùng nhìn rõ sự thụt hậu của đất nước và hiểm họa diệt vong
của dân tộc thì chúng ta sẽ không cần nói đến cụm từ “hoà hợp hòa giải” vì
trong mỗi chúng ta, chế độ cộng sản tàn ác chỉ là một cơn ác mộng vừa qua đi và
sẽ không bao giờ trở lại!
Đất Mẹ Việt Nam!
Khiếu Đức Long
Việt Nam, Đất Mẹ tôi ơi!
Tại sao tôi phải xa dời Mẹ yêu?
Vì ai Đất Mẹ tiêu điều?
Vì thuyết cộng sản giáo điều ngoại lai!
Đứng đầu là bọn bất tài,
Tham lam độc ác, hỏi ai sống còn?
Chiêu bài “Độc lập” tô son,
“Tự do, Hạnh phúc” mỏi mòn chờ trông,
Đất nước thống nhất chưa xong,
Đấu tố địa chủ máu hồng tuôn rơi!
Miền Nam thịnh vượng sáng ngời,
Miền Bắc đói rách nghe lời “Bác Mao”!
“Bác Hồ” dâm loạn thế nào,
Tôn xưng là bậc anh hào cứu dân!
Phát động cuộc chiến Bắc Nam,
Xương tan thịt nát ngập tràn núi sông!
Miền Nam vừa chiếm được xong,
Cộng sản miền Bắc tự xưng anh hùng;
Bắt dân Nam phải phục tùng,
Phải khai lý lịch, phải xưng tội mình!
Quân nhân, công chức khai trình,
Tưởng là biện pháp an ninh thông thường.
Ít lâu có lệnh tỏ tường:
Sĩ quan học tập chỉ trong mười ngày;
Áo quần tiền gạo trong tay
Để ra trình diện đi ngay đến trường;
Ai ngờ bị giải lên rừng
Ma thiêng nước độc trên vùng thượng du.
Té ra là phải đi tù
Khổ sai lao động đói no thất thường!
“Cải tạo” như thế đấy chăng?
Ngã bệnh không thuốc, chết chôn sơ sài;
Ba năm là nhẹ nhất rồi,
Nặng ra là phải vài mươi năm ròng.
Tòa chẳng có, án cũng không;
Công lý mờ mịt, tội chung mọi người.
* * *
Dân giàu thành thị đâu rồi?
“Tư sản mại bản” phải lôi tố liền!
Chúng mày bóc lột thâm niên,
Đầu cơ tích trữ trở nên phú hào.
Bây giờ lột sạch xem sao:
Nhà cửa mất hết, dắt nhau về vườn:
“Vùng kinh tế mới”: đất hoang,
Khai thác mà sống, chỉ hơn đi tù.
Thôi thôi “băm sáu đường tu”,
Xem ra chỉ có đường “vù” là hay;
Ra khỏi nước cách nào đây?
Bờ biển chữ S, kế hay: đi thuyền
Biến thành đại nạn vượt biên!
“Cây vàng” đút lót công an biên phòng;
Tưởng chịu mất của là xong,
Đâu ngờ đại hoạ chực trông hại người:
Công an, cướp biển, sóng giồi,
Mạng người: sâu bọ, tuỳ người giết, tha.
Nữ trang, vàng, ngọc lột ra,
Nếu còn nhân tính: đẩy xa con thuyền.
Ngược lại: thú tính nổi lên,
Mồi ngon kề mõm, chưa yên đâu mà!
Thuyền có con gái đàn bà,
Tha hồ hãm hiếp, thật là thảm thương!
Đàn ông chống cự phải không?
Biển cả sẵn đó: mồ chôn chúng mày!
Thế giới thấy thảm thương thay:
Cứu dân tị nạn, dang tay đón vào…
* * *
Tổ tiên ta dạy thế nào?
Người trong một nước thương nhau một lòng;
Lạc Hồng máu đỏ cùng dòng;
Thương yêu đoàn kết để chung giữ gìn
Non sông gấm vóc vững bền, Truyền cho con cháu trăm nghìn vạn năm.
Than ôi! Vận nước tối tăm,
Nồi da xáo thịt lầm than kéo dài.
Hoàng, Trường Sa mất cả rồi!
Chủ quyền từ bỏ, im hơi ngậm mồm!
Hèn ngu một lũ nắm quyền,
Những ai chống đối vào liền nhà giam!
Lịch sử Việt: bốn ngàn năm,
Chiến đấu cứu quốc, nữ nam anh hùng,
Thiếu gì gương sáng soi chung,
Nay chúng dẹp bỏ để không thấy gì!
Biến dân thành bọn ngu si,
Chỉ biết có “Đảng” còn gì nước non?
* * *
Ai còn giữ tấm lòng son?
Hãy mau đứng dậy cứu non sông này!
Quật chúng xuống: bọn cướp ngày!
“Lũ quan cách mạng”: một bầy hại dân!
Đoàn kết lại, chống ngoại xâm,
Bạch Đằng chiến tích bao năm còn truyền!
Hoàng, Trường Sa lấy lại liền!
Nam Quan, Bản Giốc thuộc quyền Việt Nam!
Đánh bại Tàu cộng tham lam,
Noi gương Tiên Tổ bảo toàn núi sông.
Xứng danh con Lạc cháu Hồng,
Hiên ngang dõng dạc tuyên ngôn với đời:
Giặc Tàu tàn bạo diệt rồi,
Việt Nam nay lại lên ngôi “Anh Hùng”!
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại
bài từ DCVOnline.net“
Nguồn:
– Khiếu Ngọc Lam, Hậu duê Bắc di cư với ngày 30/4, Hội Ái hữu Petrus Trương Vĩnh Ký, Úc châu.
– Khiếu Đức Long, Đất
Mẹ Việt Nam! Hội Ái hữu Petrus Trương Vĩnh Ký, Úc châu. Tác giả là
cựu giáo sư Petrus Trương Vĩnh Ký Sài Gòn.
DCVOnline biên tập và minh họa.
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại
bài từ DCVOnline.net“
No comments:
Post a Comment