Chủ
trương quốc phòng “bốn không” của Việt Nam phải chăng là kết tinh của việc
“không suy nghĩ”?
Trương
Nhân Tuấn
14/04/2021
Việt Nam có công bố “Sách trắng quốc phòng năm
2019”, trong đó có chủ trương “Bốn Không”:
1- Không tham gia liên minh quân sự;
2- Không liên kết với nước này để chống nước
kia;
3- Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc
sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác;
4- Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực trong quan hệ quốc tế.
Trước kia là “ba không”, cái không thứ tư chỉ
mới thêm vô năm 2019.
Theo tôi, Việt Nam cần ghi thêm một cái không
nữa thành “năm không”. Đứng
đầu bảng phải là “không suy nghĩ”.
Nếu ta nhớ lại cuộc chiến 1979, Trung Quốc
“cho Việt Nam một bài học”. Việt Nam “theo phe này chống phe kia”. Việt Nam đã
ký hiệp ước hỗ tương với Liên Xô và gia nhập khối kinh tế COMECON do Liên Xô đứng
đầu. Việt Nam theo Liên Xô chống Trung Quốc. Sau khi khối Cộng sản sụp đổ qua sự
phân liệt của Liên bang Xô viết, đầu thập niên 1990, Việt Nam chơ vơ, do đó phải
quay qua Trung Quốc, khấu đầu với Bắc kinh để cầu hòa.
Theo tôi, kết quả chính sách “ba không” hay “bốn
không” của quốc phòng Việt Nam, là do Trung Quốc áp đặt, như một điều kiện để
được thiết lập lại bang giao. Cái không thứ tư mới thêm vào cũng không làm thay
đổi cốt lõi của chính sách quốc phòng của Việt Nam. Hiến chương Liên Hiệp quốc trong những điều căn bản
đã ngăn cấm việc sử dụng vũ lực, hay đe dọa bằng vũ lực để giải quyết các tranh
chấp. Ghi thêm điều 4 này vô là thừa.
Chính sách “ba không”, hay “bốn không” của quốc
phòng Việt Nam cho thấy lãnh đạo CSVN khước từ thực thi chủ quyền quốc gia,
trên phương diện quyền kết hợp với đồng minh để phòng thủ tập thể, bảo vệ an
ninh và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Ở điểm 1, Việt Nam có quyền liên minh quân sự
với một quốc gia khác ngoài khu vực, không phải để gây hấn với quốc gia nào
khác, mà để “tổng hợp sức mạnh” với bạn bè nhằm bảo vệ quốc gia mình.
Trong khối ASEAN, Phi và Singapore đều có kết
ước hỗ tương với Mỹ.
Đảng CSVN từ bỏ quyền chính đáng “phòng thủ tập
thể” là hành vi tự nguyện từ bỏ, hay hạn chế chủ quyền.
Chủ quyền cao nhứt quốc gia là quyền vũ trang
để tự vệ. Ở điểm 3, việc cho phép đồng minh đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ quốc
gia, nếu thấy cần thiết, là hành vi thể hiện tính độc lập của quốc gia trong
quan hệ quốc phòng nhằm mục đích tự vệ. Từ khước điều này đồng nghĩa với việc mất
độc lập và chủ quyền của quốc gia bị hạn chế.
Hiện nay chỉ có Nhật và trong chừng mực nước Đức
là bị hạn chế về chủ quyền trong lãnh vực quốc phòng mà thôi. Nhật bị mất chủ
quyền tối thượng là không được tham gia chiến tranh ngoài lãnh thổ, bởi vì đây
là sự áp đặt của Mỹ, phía chiến thắng trong Thế chiến thứ II.
Vì vậy ta có thể khẳng định, Trung Quốc đã áp
đặt cho Việt Nam từ thập niên 1990, như Mỹ áp đặt cho Nhật. Việt Nam phải từ bỏ
quyền “phòng thủ tập thể”, từ nay Việt Nam không được theo bất kỳ một phe nào
khác, ngoài Trung Quốc.
Nói
trắng ra là Việt Nam phải ngoan ngoãn đứng dưới cái bóng của Trung Quốc, trở
thành một chư hầu của Trung Quốc.
Ta thấy chính sách “bốn không” về quốc phòng của
Việt Nam có hệ quả như tự mình trói tay mình, trên những vấn đề ở biển Đông. Nếu
có xung đột với Trung Quốc, nhiều khả năng Việt Nam sẽ đứng một mình.
Khi Trung Quốc áp đặt “bốn không” cho Việt Nam
như là điều kiện để tái lập lại bang giao thì ở Biển Đông, Trung Quốc đã thành
công loại bỏ một chỗ đứng cho Mỹ. Đối phó với Mỹ trong khu vực đơn giản trở
thành đối phó với Phi. Dĩ nhiên điều này dễ dàng cho Trung Quốc thực hiện các
tham vọng của họ ở Biển Đông hơn là, nếu Việt Nam và Phi cùng có liên minh với
Mỹ.
Ta thấy ở điểm này Trung Quốc có tầm nhìn xa.
Cũng không khác Mỹ tước quyền tham dự chiến tranh của Nhật. Mục đích là để Nhật
lệ thuộc vào quốc phòng của Mỹ.
Còn Trung Quốc làm vậy đối với Việt Nam là để
Việt Nam không trở thành một mối nguy hiểm, hoặc là Việt Nam trong tương lai
không thể cản trở những tham vọng về “biển Xanh” của Trung Quốc.
Nếu không phải vậy thì cần thêm một cái không
nữa lên đầu bảng, đó là “không suy nghĩ”.
No comments:
Post a Comment