Posted on 19/10/2018
Ngày 1/10/2018, trang Facebook SOL-VNU Confessions loan
báo một thông tin đặc biệt: Tiến sĩ Nguyễn Hùng Cường đã bị Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, sau hàng loạt đơn tố
cáo nhắm vào vị giảng viên trẻ này.
Đây là điều đã được nhiều sinh viên và cựu sinh viên
Khoa Luật chờ đợi từ lâu, bất chấp những nỗ lực phản đối của ông Cường.
Nguồn cơn bắt đầu từ bốn tháng trước đó, khi trang
Facebook có khoảng 20 nghìn người theo dõi này bắt đầu đăng
tải những thông tin tố cáo một giảng viên của Khoa nhắn tin tán tỉnh một
nữ sinh viên. Lập tức, động thái này được nhiều sinh viên và cựu sinh viên của
Khoa Luật ủng hộ. Nhiều nữ sinh viên tiếp tục cung cấp thêm thông tin cho Ban
quản trị trang và dần dần, dư luận mới biết rõ vị giảng viên bị tố cáo là Tiến
sĩ Nguyễn Hùng Cường, với các cáo buộc quấy rối tình dục, gạ tình đổi điểm và
trù dập nữ sinh viên.
SOL-VNU Confessions là một trang Facebook của cộng đồng
Khoa Luật, được lập ra trong trào lưu “tự thú” trên mạng của sinh viên Việt Nam
trong vài năm trở lại đây. Khởi phát là một phong trào đậm chất nghịch ngợm và
mang tính giải trí của sinh viên, các trang confessions dần trở thành nơi sinh
viên tố cáo nhà trường, trong đó có cả giảng viên.
Hơi nóng từ mạng xã hội không dừng lại ở đó, khi vào
tháng 6, cộng đồng Khoa Luật kêu gọi nhau ký một kiến
nghị thư trên mạng, đề nghị Khoa ghi nhận sự việc và tiến hành thanh tra.
Kiến nghị này do Trần Anh Đức, cựu sinh viên Khoá 57 của Khoa khởi xướng và thu
hút tới gần 6.000 chữ ký.
Với việc một số giảng viên công khai ủng hộ những
người tố cáo, vụ việc này đã được Khoa Luật xử lý rốt ráo và kết
luận rằng có cơ sở để khẳng định ông Cường chủ động nhắn tin với các
sinh viên nữ trong Khoa, trong đó các nội dung tin nhắn có thể hiện cách ứng xử
chưa đúng mực trong mối quan hệ giữa nhà giáo và người học. Các nội dung tố cáo
về việc gạ tình đổi điểm, làm nữ sinh viên mang thai đều được Khoa kết luận là
chưa đủ cơ sở để khẳng định. Tiến sĩ Cường vẫn phản đối các quyết định của Khoa
Luật nhưng vụ việc đến nay không có thêm diễn biến gì mới.
Đây được coi là một thắng lợi của cộng đồng mạng xã
hội trong việc bảo vệ nữ giới trước vấn nạn quấy rối tình dục. Không mấy ai gọi
nó là phong trào #metoo của Việt Nam, nhưng có lẽ chưa từng có một vụ việc nào ở
Việt Nam gần với #metoo đến như vậy.
Mọi thứ đã khởi đầu trên Facebook, do cộng đồng
Facebook thúc đẩy và sau cùng giành được thắng lợi trên thực tế.
Dù có nhiều yếu tố bên trong mà người ngoài khó có
thể nhận biết và phân tích tường tận, có một sự thật rằng mạng xã hội và các
công cụ Internet đang mở ra một thời kỳ @ cho khiếu nại – tố cáo, hiệu quả hơn
rất nhiều lần so với hệ thống quan liêu đang tồn tại.
T.D tố cáo anh rể Minh Tiệp trên Facebook. Ảnh: 24h.com.vn.
*
Dùng Facebook tố cáo anh rể bạo hành
Cũng khởi đầu từ cuối tháng 5/2018 như vụ Khoa Luật,
nhưng việc em T.D (15 tuổi) lên
Facebook tố cáo anh rể đánh đập mình được dư luận chú ý nhiều hơn, do nhân
vật bị tố cáo là một người nổi tiếng: biên tập viên, người dẫn chương trình
Minh Tiệp của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV).
Em T.D kể trên Facebook rằng anh rể đã đánh đập em
nhiều lần trong suốt năm năm, từ lớp 6 đến hết lớp 10, kèm theo một số hình ảnh
thương tích trên mặt. T.D cũng tố cáo anh rể từng bạo hành vợ.
Làn sóng dư luận dâng cao, Minh Tiệp và người nhà của
T.D lên tiếng phủ nhận thông tin này, mặc dù bố vợ Minh Tiệp xác nhận anh này từng
bạt tai T.D.
Ba ngày sau, VTV thông báo tạm dừng phân công công
việc cho Minh Tiệp, chờ xác minh của cơ quan chức năng. Cục Trẻ em (Bộ Lao động
– Thương binh – Xã hội) cũng lên tiếng vào cuộc khẩn cấp để xác minh và can thiệp
theo luật. Ngay cả Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) cũng tuyên bố đang “hợp
tác chặt chẽ” với chính phủ Việt Nam trong vụ việc này.
Rất tiếc, vụ việc này chìm xuồng kể từ đó và không
có thông tin nào thêm trên báo chí.
Có ba vấn nạn mà phụ nữ thường phải đối mặt: quấy rối
tình dục, bạo hành và phân biệt đối xử.
Báo
cáo Quốc gia về Bạo lực Gia đình đối với Phụ nữ do Tổng cục Thống kê thực
hiện năm 2010 cho biết, có 58% phụ nữ từng bị chồng bạo hành, khoảng ¼ phụ nữ
có con dưới 15 tuổi cho biết con của mình từng bị bạo hành do chồng gây ra.
Trong khi đó, CARE – một tổ chức quốc tế chuyên về quyền phụ nữ – cho
biết, “87% nữ giới được khảo sát tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh xác nhận họ
đã bị quấy rối tình dục tại nơi công cộng. Tại trường học, 31% nữ sinh cho biết
họ đã bị quấy rối tình dục tại nơi công cộng và trên các phương tiện công cộng.”
Tuy vậy, số lượng nạn nhân khổng lồ này gần như im
hơi lặng tiếng trước bất công mà bản thân phải chịu đựng. Báo cáo của Tổng cục
Thống kê cho thấy, hầu hết phụ nữ bị bạo hành (87%) “chưa bao giờ tìm kiếm sự hỗ
trợ từ các dịch vụ chính thống hoặc từ những người có thẩm quyền và một nửa số
phụ nữ từng bị chồng gây bạo lực chưa từng nói với bất cứ ai về vấn đề mà mình
phải hứng chịu”.
Trong bối cảnh các công cụ chính thống như tư pháp
(toà án, công an), hành chính (Cục Trẻ em), lập pháp (Quốc hội, Hội đồng Nhân
dân), tổ chức xã hội (Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Bảo vệ Quyền Trẻ em) không được
tận dụng, phụ nữ lại tìm đến một công cụ hoàn toàn mới mẻ nhưng tỏ ra hiệu quả
hơn rất nhiều: Facebook.
Ngay cả một bà mẹ trẻ, 16 tuổi, tại một vùng thôn
quê ở Quảng Bình cũng biết dùng
Facebook để tố cáo hành vi bạo hành của chồng. Cô đăng tin lên Facebook vào
đầu tháng 10 và ngay lập tức công an xã và huyện đã vào cuộc.
Một câu chuyện thành công khác là việc bà mẹ Trương Nam Thi sử dụng Facebook
làm kênh truyền thông đắc lực để tố cáo cựu giám đốc ngân hàng nhà nước Nguyễn
Khắc Thuỷ về tội dâm ô với con gái cô. Các bài viết của cô trên Facebook thường
thu hút hàng trăm, hàng nghìn lượt like (thích) và hàng trăm lượt share (chia sẻ).
Dưới sức ép rất lớn của cộng đồng Facebook, vụ án cuối cùng đã đi đến hồi kết với
bản
án ba năm tù giam dành cho thủ phạm vào tháng 6/2018.
Tuy nhiên,
cánh cửa kêu cứu đầy hữu hiệu này rất có thể sẽ khép lại một khi Luật An ninh mạng
có hiệu lực từ ngày 1/1/2019.
Kịch bản Facebook và Google rút khỏi Việt Nam giờ đây không còn xa vời nữa.
Ảnh: SBTN.
*
Bức tử mạng xã hội
Bản chất của Luật An ninh mạng là việc ngành công an
giành lấy quyền kiểm soát tuyệt đối trên không gian Internet. Xưa nay, Internet
là không gian tương đối tự do của người dùng Việt Nam do sự phát triển của công
nghệ vượt quá tầm kiểm soát của chính quyền nói chung và ngành công an nói
riêng. Nay, với Luật An ninh mạng, công an có thể
bức tử không gian tự do ít ỏi còn sót lại này.
Chiến lược kiểm soát của Luật An ninh mạng là nắm đầu
những kẻ có tóc: các công ty cung cấp dịch vụ trên Internet.
Nhưng không phải kẻ có tóc nào cũng là đối tượng chủ
yếu mà Luật An ninh mạng nhắm đến, bởi xưa nay, các công ty nội địa đã luôn nằm
trong tầm kiểm soát của công an. Kẻ công an cần khuất phục nhất là các công ty
nước ngoài như Facebook, Google, Apple, v.v.
Bằng cách ép các công ty này mở văn phòng và lưu dữ
liệu người dùng ở Việt Nam, chính quyền có thể yêu cầu các công ty này giao nộp
dữ liệu riêng tư của người dùng theo yêu cầu của cơ quan nhà nước và yêu cầu họ
hợp tác với chính quyền để kiểm duyệt nội dung trên mạng.
Quy định này đặt các công ty nước ngoài vào một thế
lưỡng nan: tuân thủ thì đi ngược lại với giá trị tự do mà họ theo đuổi, còn
không tuân thủ thì sẽ bị Việt Nam chặn truy cập, dẫn đến mất lượng người dùng
và doanh thu từ Việt Nam.
Dù kịch bản nào sẽ xảy ra trong thời gian tới, người
dùng Internet Việt Nam cũng sẽ hoặc là mất đi các nền tảng trực tuyến quen thuộc
như Facebook, Youtube, WordPress do dịch vụ bị chặn, hoặc là chấp nhận tiếp tục
sử dụng nhưng bị lộ thông tin cá nhân bất cứ lúc nào. Điều này sẽ ngăn cản người
dùng, trong đó có phụ nữ, sử dụng mạng xã hội để tố cáo tiêu cực và đấu tranh
chống lại nạn bạo hành và xâm hại tình dục.
No comments:
Post a Comment