S.T.T.D Tưởng Năng
Tiến (Danlambao)
4/16/2021 4
Comments
https://danlambaovn.blogspot.com/2021/04/nguoi-at-sai-gon.html
Tôi sinh ra ở Sài Gòn, nơi vẫn được mệnh danh
là Hòn Ngọc Viễn Ðông. Chỉ tiếc có điều là ngay tại chỗ tôi mở mắt
chào đời (Xóm Chiếu, Khánh Hội) thì lại không được danh giá hay ngọc ngà gì
cho lắm. Đây thường là nơi ngụ cư của những tay anh chị, những cô gái ăn
sương, những đứa trẻ bụi đời, những phu phen bốc vác ở kho Năm, hay đám “đào
kép cải lương say tứ chiếng” – theo như lời của nhà thơ Cao
Đông Khánh:
sàigòn, chợ lớn như mưa chớp
nát cả trùng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về xóm chiếu
nước ròng ngọt át giọng hàng rong
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm giấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông
sàigòn khánh hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiếng
ngã tư quốc tế đứng xàng xê
Dù “xàng xê” và “cải lương” tới bến
nhưng khi “cách mạng về” là dân Khánh Hội đều “hết say tứ chiến” cấp
kỳ. Tui, tất nhiên, cũng tỉnh táo liền. Tỉnh rồi mới bắt đầu hớt
hải “hỏi thăm cho biết đường ra biển,” và cuống quýt đâm xầm vào giữa
đại dương, bỏ lại S.G – như cắn răng cắt bỏ một phần thân thể của
chính mình.
Tuy thoát thân nhưng không ít đêm, những
đêm khó ngủ, tôi vẫn lò dò trở về chốn cũ. Có khi, tôi đứng ngẩn
ngơ nhìn chiếc bong bóng vừa mua đã (lỡ) tuột khỏi tay – lơ lửng bay
giữa những hàng cây, vào một buổi chiều Sài Gòn vừa tắt nắng – mà
muốn ứa nước mắt vì tiếc và buồn.
Cũng có khi tôi ngồi trước một xe bán
bò viên, chăm chăm nhìn thùng nước lèo vừa mở nắp, và tưởng chừng
như không gian (của cả Sài Gòn hoa lệ) bỗng ngạt ngào hương vị. Chút nước
thánh này – sau khi đã nhai thiệt chậm miếng thịt pha gân vừa ròn, vừa ngậy –
hoà nhẹ với chút xíu tương đỏ, tương đen, cùng ớt xa tế ngọt ngọt cay cay làm
cho thằng bé xuýt xoa … cho đến lúc cuối đời.
Nhiều khi, tôi ngồi chò hỏ trước nhà
(mặt buồn thiu) vì không được bố mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay năm cắc
hay tờ giấy bạc một đồng – như thường lệ. Chỉ cần năm cắc thôi là đủ
khiến chú Chệt vội vã ngừng xe, mở ngay nắp bình móp, lấy miếng kem đầy
đặn – xắn một phần vuông vắn, cắm phập vào que tre – trịnh trọng trao hàng với
nụ cười hiền lành và tươi tắn. Cắn một miếng ngập răng, đậu xanh ngọt bùi,
thấm lạnh dần qua miệng lưỡi, rồi tan từ từ… suốt cả thời thơ ấu.
Năm cắc là giá của nửa ổ bánh mì tai heo, nửa
má xoài tượng, một xâu tầm ruột ướp nước đường, một cuốn bò bía, một trái bắp
vườn, một ly đậu xanh đậu đỏ bánh lọt, một dĩa gỏi đu đủ bò khô, một khúc mía hấp,
năm cái bánh bò nước dừa xanh đỏ, hay mười viên cái bi ròn ròn cái bi ngon ngon
nho nhỏ…
Một một đồng thì (ôi thôi) là cả bầu một trời,
và một thời, hạnh phúc! Một đồng mới mua được quả bóng bay. Chiều Sài Gòn mà
không có bong bóng (cầm tay) để tung tăng e sẽ là một buổi chiều… tẻ nhạt. Những
chùm bóng đủ mầu sẽ rực rỡ hơn khi phố đã lên đèn, và sẽ rực rỡ mãi trong
trong ký ức của một kẻ tha hương – cho mãi đến khi tóc đã điểm sương.
Dù một trời, và một thời, hạnh phúc xa xưa
đã vuột khỏi tay – như quả bóng bay, không may, chiều nào, vào thưở
ấu thời – tôi vẫn “sẵn sàng” nổi nóng nếu ai vô ý đặt chân đến cái
phần thiên đường đã mất của mình.
Có bữa, bên bàn nhậu, Lê Diễn Đức bỗng
nói khơi khơi:
– Tôi là dân Sài Gòn mà.
Tôi trợn trừng mắt:
– Đừng có nói giỡn cha!
– Thiệt mà, tôi sống ở Sài Gòn gần hai
chục năm chớ đâu phải ít.
Tới lúc đó tôi mới chợt nhớ ra là mình
đã bỏ đi từ quá lâu rồi, còn tư cách gì để mà giữ S.G (mãi mãi)
nữa nên đành xuôi xị:
– Bộ lâu dữ vậy sao?
Sau Lê Diễn Đức, tôi còn biết thêm nhiều
nhân vật khác, cũng đã chọn S.G làm quê hương chỉ vì nó quá… dễ
thương – theo mắt nhìn của họ:
– Ba Sàm Nguyễn Hữu
Vinh: “Một đêm, chạy xe máy về nhà (ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ,
ngó hai bên đường vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng
thắng xe cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với chiếc xích lô trống không.
Quê quá, phải dừng theo! Nhiều năm sau, ở Hà Nội, những
ngã tư đông đúc như Tràng Tiền-Hàng Bài, ngoài một chú cảnh sát đứng bục, thường
phải thêm có 4 chú cầm gậy chặn bốn phía, lùa, đuổi mà cũng không xuể.
Lên xe bus, xe đò trong Nam luôn cho hắn những cảm
giác thích thú để quan sát. Đủ các hạng người, mà sao không chen lấn, cãi vã.
Khách nhường ghế cho nhau, thăm hỏi, chỉ đường tận tình (những thứ mà cho đến
hôm nay, trên xe bus Hà Nội, người ta phải ghi lên tấm biển to đùng, thành “Nội
quy”). Lơ xe lăng xăng xách, buộc chằng đồ cẩn thận cho khách, nhảy lên mui,
đeo bên thành xe la nhắc người dưới đường cẩn thận.”
– Nguyễn
Quang Lập: “Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào
Sài Gòn… Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường
thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa
đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem
bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng
thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo
nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời.
Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh
lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm
phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các
mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là
giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí…
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống
cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen
chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm
nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy
chân kính.
Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết
mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng.
Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một
thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay
cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng
sốt.”
Tôi cũng “sửng sốt” không kém khi nhìn
thấy bức hình của một người S.G (nữa) giữa phố Nguyễn Huệ – vào
chiều chủ nhật, 15 tháng 5 năm 2016 vừa qua – trên trang RFA:
Bức ảnh người đàn ông toạ kháng một mình trên phố đi
bộ Nguyễn Huệ chiều 15 tháng 5 được chụp bởi một người chơi ảnh tên Bùi Dzũ
nhanh chóng được lan truyền rộng rãi trên các trang mạng xã hội. Không lâu sau
đó, cư dân mạng biết tìm ra đó chính là nhà báo/blogger Huỳnh Ngọc Chênh, người
đã phát động phong trào toạ kháng để đòi sự minh bạch về thảm hoạ môi trường. Tấm
ảnh được chính người chụp gọi tên là “Người đàn ông cô đơn”.
Tôi không biết rõ Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn
Quang Lập, Huỳnh Ngọc Chênh… nguyên quán nơi đâu nhưng biết chắc là họ
đã sống hết lòng (qua từng hơi thở, từng dòng chữ, từng bước chân)
để cố giữ lại được cho S.G – phần nào – nhân phẩm và đạo lý.
Bao giờ mà ở những góc đường vẫn có
những bình trà đá, những thùng bánh mì, những quán cơm, những nơi
vá xe (miễn phí) và bao giờ mà vẫn còn qúi vị thức giả sẵn sàng
đối diện với cường quyền thì S.G vẫn chưa thể mất. Tôi không mất S.G
đâu nhưng thành phố này đã mất tôi, và mất tự lâu rồi. Cái thứ đồ
bỏ chạy (mất dép) trong cơn quốc biến, và cúi mặt đi luôn như tôi thì
dù có mất luôn (phỏng) có gì đáng để bận tâm.
No comments:
Post a Comment