Chuyện thắng
– thua sau ngày 30 tháng 4 năm 1975
Đỗ
Kim Thêm
22/04/2021
https://baotiengdan.com/2021/04/22/chuyen-thang-thua-sau-ngay-30-thang-4-nam-1975/
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/04/0-103.jpg
Người dân bỏ chạy
sau khi được “giải phóng”. Ảnh trên mạng
Hàng năm, cứ mỗi lần đến ngày kỷ niệm 30 tháng
4, các phe tham chiến có dịp nhận định lại ý nghĩa chiến thắng. Dù hoà bình tái
lập sau 46 năm, những cuộc tranh luận thắng, thua không có hồi kết cuộc. Các
quan điểm khác nhau này có thể tóm lược như sau:
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ thua vì phải trả 167 tỷ đô la cho chiến
phí và 58.000 binh sĩ hy sinh. Trong lĩnh vực đối ngoại, hậu quả trầm trọng là
uy tín siêu cường của Mỹ không còn; phong trào chống Mỹ tại châu Âu, vốn dĩ đã
có sẵn, nay lên cực điểm; các nước chậm tiến xem từ nay liên minh quân sự với Mỹ
là tai hoạ. Lịch sử thương đau tái diễn khi Mỹ sẽ tháo chạy khỏi Afghanistan
vào tháng 9 năm 2021.
Trong lĩnh vực đối nội, chiến tranh Việt Nam
đã đem lại một vết thương sâu thẳm về tinh thần, không phải chỉ riêng với các cựu
chiến binh, mà cho toàn dân Mỹ. Các giá trị cao cả được đề cao và theo đuổi trước
đây, như dấn thân làm biểu tượng cho thế giới tự do, nay được đặt lại nghiêm
túc hơn để tìm một hướng đi mới làm hồi sinh cho dân tộc.
Các thảo luận về cuộc tham chiến tại Việt Nam
hầu hết tập trung vào khía cạnh quân sự và đi đến kết luận chung là, Hoa Kỳ đã
không nhận ra hoặc theo đến cùng ba cơ hội để chiến thắng trong ba thời kỳ khác
nhau.
Một
là, khái niệm Counterinsurgency của Kennedy
là một sách lược chống Cộng đúng đắn cho Việt Nam mà kinh nghiệm tại Mã Lai và
Philippines đã chứng minh thành công.
Lý do hỗ trợ cho quan điểm này, thoạt đầu là
chính phủ Ngô Đinh Diệm được hai thành phần nông dân miền Nam và người Bắc di
cư ủng hộ.
Xã hội đang chuyển mình với một chính quyền có
hiệu năng trong việc xây dựng đất nước. Các thí dụ điển hình là kết hợp các
giáo phái và giải quyết xung đột điạ phương, một nền giáo dục nhân bản bắt đầu
khởi sắc và một nền kinh tế thị trường trên đà phát triển.
VNCH thực thi Quốc sách Ấp Chiến Lược có nhiều
sai lầm, gây bất mãn cho nông dân và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam
(MTGPMN) bắt đầu có cơ hội phát triển cơ sở.
Sau năm 1960, MTGPMN chưa có lý do để tuyên
truyền rằng lính Mỹ xâm lược hay bom Mỹ phá hoại xóm làng. Chính sách gia đình
trị cũng như kỳ thị tôn giáo của Tổng thống Diệm chưa thành hình.
Tổng thống Kennedy không quan tâm kết hợp các
thành quả xây dựng của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trong công cuộc đấu tranh toàn
diện, kể cả bằng quân sự. Mỹ chỉ gởi các cố vấn quân sự, không đủ mạnh để tiêu
diệt Cộng sản khi còn trong thời kỳ phôi thai.
Trở ngại chính, một phần là do phản ứng đầy tự
ái dân tộc của Tổng thống Diệm, một phần do thiếu kiên quyết của Tổng thống
Kennedy gây áp lực.
Hai
là, Tổng thống Johnson quyết định leo thang
chiến tranh, nhưng lại áp dụng trong phạm vi giới hạn. Dị biệt quan điểm giữa
các cố vấn dân sự và quân sự về sách lược đấu tranh làm cho Johnson thiếu kiên
quyết khi chủ trương không gài mìn cảng Hải Phòng, sợ làm chìm tàu viện trợ của
Nga, luôn lo sợ có thể bị Trung Quốc và Nga trả đũa.
Sai lầm nhất là, Tổng thống Johnson không cho
truy cùng đuổi tận Cộng quân qua bên kia lãnh thổ Campuchia và Lào, vì lo sẽ mở
rộng biên giới cho cuộc chiến. Các biện pháp này Nixon thấy là đúng đắn và thực
hiện về sau.
Giới chức quân sự tin rằng, nếu Johnson oanh tạc
các trục tiếp vận và phong toả các hải cảng miền Bắc mạnh hơn và tiến hành Việt
Nam hóa chiến tranh ở miền Nam vào cuối năm 1966, đó là cơ hội thích hợp nhất để
thắng Bắc Việt.
Ngược lại, Johnson-McNamara cho rằng chiến thắng
quân sự không là một giải pháp tối ưu như quan niệm cổ điển, mà nên ưu tiên xây
dựng dân chủ cho miền Nam. Mục đích oanh tạc và đánh phá các căn cứ hậu cần là
để giảm mức độ xâm nhập của quân Bắc Việt và không phá hủy miền Bắc.
Năm 1967, mặc dù thực hiện chiến dịch Rolling
Thunder và tăng quân lên 425.000, nhưng Bắc Việt không chịu đàm phán, nên
không có triển vọng kết thúc chiến tranh.
Sự hiện diện binh sĩ Hoa Kỳ tại miền Nam và
các đợt không kích tại miền Bắc giúp cho Bắc Việt có lập luận tuyên truyền mạnh
hơn là Hoa Kỳ xâm lăng. Khi Bắc Việt thu phục nhân tâm tại nông thôn, cũng như
các trí thức cảnh tả phương Tây, có nghĩa là đấu tranh ngoại vận của Hoa Kỳ và
VNCH thêm khó khăn.
Ba
là, thành quả cuộc không kích Linebacker
II của Nixon đến nay vẫn còn bí ẩn. Tại sao Nixon không kéo dài oanh tạc
trước nguy cơ sụp đổ của Bắc Việt? Chiến thắng gần kề mà Nixon lại tạo cho cơ hội
cho Bắc Việt đàm phán và mua thời gian? Sai lầm?
Có quá nhiều cách giải thích về chuyện ngưng
không tập này. Dư luận thế giới kết án Hoa Kỳ nặng nề về mặt đạo đức và kêu gọi
ngưng oanh tạc. Đức Giáo Hoàng Paul VI lên tiếng phản đối, Liên Xô và Trung Quốc
cũng đổi giọng, cương quyết ủng hộ và bảo đảm Bắc Việt sẽ giành được thắng lợi.
Đó không phải là lý do chính mà Hoa Kỳ không
tiếp tục không kích. Oanh tạc và phong toả hải cảng Bắc Việt thành công, làm
cho các lực lượng phòng không và các chuyển vận bị tê liệt, Hoa Kỳ đã đạt được
các mục tiêu.
Khi tổng kết trận ném bom trong dịp Lễ Giáng
sinh, Bắc Việt lập luận rằng họ thắng lớn, khi Không quân Hoa Kỳ thiệt hại nặng
nề, với 34 máy bay B-52 và 47 chiếc khác bị bắn rơi, nên không thể tiếp tục và
không tạo nên sức ép đối với kết quả của Hội nghị Paris.
Ngược lại, phía Mỹ công bố con số thấp hơn: 15
B-52 và 12 phi cơ chiến đấu bị bắn hạ và 44 phi công bị bắt.
Theo Ten Gunderson, nhân viên FBI cho biết, Bắc
Việt đầu hàng sau cuộc oanh tạc này, xác quyết là CIA nhẹm tin và đổi các nhân
viên phụ trách sang các nhiệm sở khác. Nguồn tin này khó kiểm chứng và vẫn còn
nghi ngờ.
Dù theo lối giải thích nào, thì Nixon cũng tỏ
ra kiên quyết chống Cộng và có nỗ lực cuối cùng tạo chiến thắng cho Hoa Kỳ và
VNCH.
Tại sao Kennedy không tiến hành chiến dịch
Bình Định Nông Thôn và hành quân bộ binh ngay lừ lúc đầu mà Johnson đã phải làm
về sau? Tại sao Johnson không tấn công truy quét Cộng quân sang tận Campuchia
và Lào như Nixon? Tại sao Johnson và Nixon luôn lo sợ Trung Quốc và Nga Xô trực
tiếp can thiệp khi các chiều hướng bang giao quốc tế thay đổi thuận lợi cho Mỹ?
Ba kịch bản mong đợi đã không xảy ra đúng lúc.
Ba lập luận này khó thuyết phục vì mang giá trị cảnh báo hoặc giải thích một sự
kiện đã rồi. Khó tìm các bằng chứng biện minh cho các lập luận này là khả thi.
Việt Nam Cộng Hòa
Việt Nam Hoá chiến tranh đòi hỏi điều kiện đầu
tiên là miền Nam phải có một chính quyền ổn định mọi mặt, nhưng VNCH còn
đang trong thời xây dựng ban đầu.
Sau năm 1963, sinh hoạt chính trị miền Nam bất
ổn liên tục. Đến nhiệm kỳ của Nixon, chương trình Việt Nam Hoá chiến tranh là
tình trạng tiến thoái lưỡng nan, hai nghịch lý song hành.
Một mặt, VNCH sẽ còn nắm quyền cho đến khi nào
còn được Hoa Kỳ ủng hộ, nhưng mặt khác, khi VNCH còn tiếp tục nắm quyền thì
chương trình Việt Nam Hoá sẽ thất bại.
Ngoài vấn đề an ninh, những vấn đề cấu trúc cơ
bản của xã hội miền Nam vẫn chưa giải quyết, đặc biệt nhất là khiá cạnh chính
danh cho chế độ. Tổng thống Thiệu thắng cử độc diễn năm 1971 với 90% số phiếu ủng
hộ, nên không tạo uy tín lãnh đạo.
Bộ máy hành chánh, cơ cấu quân đội và hệ thống
kinh tế chưa tạo ra được một ý thức về quyền lợi quốc gia đủ mạnh. Đa số dân
chúng không ý thức về nguy cơ xâm lăng của Cộng Sản, và nếu có, thì cũng quá mệt
mỏi vì chiến tranh.
Nhưng trầm trọng nhất là vấn đề tham nhũng, đa
số mong biến thành quyền lợi cá nhân và gia đình khi đóng góp cho chế độ. Khi
Việt Nam Hoá chiến tranh cũng có nghiã là dân thành phố không còn tiếp tục làm
giàu qua cơ chế viện trợ Mỹ; tinh thần ủng hộ cho chính quyền cũng suy giảm
theo.
Khả năng và bản lĩnh của chính giới miền Nam
là khía cạnh quan trọng nhất. Đa số là được Pháp đào tạo qua hai lĩnh vực quân
đội hay hành chánh, nay họ tiếp tục hành sự trong tinh thần lệ thuộc viện trợ Mỹ,
nên không thể suy nghĩ độc lập và đủ bản lĩnh tìm một lối đi tương kế tựu
kế cho đất nước trong gọng kiềm của lịch sử.
Bất hạnh nhất là một thiểu số liêm chính, họ
có khả năng, kinh nghiệm chống Cộng, tinh thần quốc gia và kiên cường thì không
được chế độ trọng dụng, nhất là cơ hội hợp tác với Mỹ.
Cùng một hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, khi
nhìn vào sinh hoạt của các chính khách Tây Đức và Nam Hàn, thì thấy có nhiều
thí dụ khác biệt.
Tinh thần chiến đấu của QLVNCH sẽ ra sao khi
được tiếp tục quân viện đầy đủ. Phe thua cuộc hãnh diện cho là binh sĩ Hoa Kỳ
đã không trực tiếp tham gia chiến đấu trong hai cuộc Tổng Công Kích 1968 và
1972, và Bắc Việt đại bại về mặt quân sự cả hai là một thành tích chứng minh
cho khả năng chiến đấu anh dũng của QLVNCH.
Đến nay, vấn đề còn gây nhiều tranh cải là
tình trạng hoảng loạn khi lãnh đạo VNCH bỏ chạy. Nhiều kịch bản đã được dàn dựng
trở lại theo nhiều cách khác nhau: sự sụp đổ sẽ nhanh hơn, chậm hơn hay đẩm máu
hơn, diễn biến tùy theo các quyết định chiến lược triệt thoái của các cấp khác
nhau.
Nhưng cuối cùng, chuyện không muốn cũng phải đến
là miền Nam sụp đổ, một thất bại chưa có trong lịch sử chiến tranh: phe thua cuộc
tự động bỏ chạy trong khi tổng kết lại thì phe thắng cuộc tổn thất nhiều hơn.
Nhưng tấm gương bất khuất và hào hùng của các
tướng lãnh và chiến sĩ kiên cường trong chiến bại luôn được hậu thế tri ân nhân
ngày 30 tháng 4.
Bắc Việt
Có nhiều loại lý giải chính cho sự thành công
của Bắc Việt, nhưng trong sách lược đấu tranh ngoại vận, Bắc Việt biết tận dụng
các bất ổn nội tình và truyền thông hỗn loạn của Hoa Kỳ là vũ khí lợi hại nhất.
Bắc Việt thảm bại quân sự trong chiến cuộc Mậu
Thân nhưng truyền thông Hoa Kỳ lầm lạc khi đề cao khả năng chiến đấu. Qua màn ảnh
truyền hình người dân Mỹ nghĩ rằng nguy cơ cho miền Nam đã đến khi Cộng quân
vào tận đến Toà Đại sứ Hoa Kỳ và các thành phố lớn.
Bắc Việt thảm bại quân sự trong chiến cuộc
1972 trong khi Nixon lo thu hẹp phạm vi hành động, phải đề ra kế hoạch tuần tự
rút quân để thu phục cảm tình của giới phản chiến.
Thắng lợi trong bang giao Nga–Hoa làm cho các
lo sợ của Hoa Kỳ phải trực tiếp đối đầu không còn. Áp lực quốc tế giảm đã đem lại
một suy nghĩ mới: Thuyết Domino không còn thuyết phục cho Hoa Kỳ phải tiếp tục
có mặt tại Việt Nam và Đông Nam Á.
Cuối cùng, Watergate là một món quà vô giá mà
Nixon, người chống Cộng điên khùng, tặng cho Bắc Việt. Hậu quả của Watergate là
Nixon từ giả chính trường, một bất hạnh cho định mệnh của Nixon, nhưng là một đại
bất hạnh cho sinh mệnh toàn dân miền Nam.
Trong sách lược đấu tranh nội chính, giới lãnh
đạo Bắc Việt cũng mang lại các đặc điểm khác lý giải cho chiến thắng.
Ý chí xâm chiếm miền Nam của Bắc Việt là động
cơ duy nhất. Khi so với các nước cùng cảnh ngộ như Đông Đức và Bắc Hàn, một vấn
đề nền tảng trong việc hoạch định chính sách được đặt ra: Tại sao hai nước này
không tiến hành đấu tranh giải phóng Tây Đức và Nam Hàn cũng đang bị Hoa Kỳ “kềm
kẹp“? Tại sao nhu cầu chiến lược của ba nước lại khác nhau?
Trong thực tế, Hà Nội đã vi phạm Hiệp Định
Paris, xâm lăng VNCH và áp đặt chế độ độc tài lên nhân dân miền Nam từ 1975.
Đối với dư luận quốc tế, Bắc Việt đánh Đế quốc
Mỹ cho đến xương máu của người Việt Nam cuối cùng thay cho Trung Quốc và Liên
Xô, đó là một lý tưởng cao cả mà cho đến nay Bắc Việt không hể phản tỉnh mà còn
tiếp tục hãnh diện.
Chính sách đu dây ngoại giao trong tình huống
xung đột Nga–Hoa là một thành công đặc biệt; không có nguồn lực này, chiến thắng
của Bắc Việt là không tưởng.
Dù lệ thuộc nặng nề về viện trợ vũ khí của khối
Cộng Sản, nhưng điểm đặc biệt là Bắc Việt lại kiên cường và hoàn toàn hành sử độc
lập trong mọi hoạt động tác chiến, không như VNCH bị lệ thuộc vào mọi sự chỉ đạo
cụ thể của Hoa Kỳ, thí dụ như yểm trợ trực thăng vận.
Đối với đồng bào, Bắc Việt không dùng các lập
luận kinh điển Mác-Lê nhằm bảo vệ công nhân bị bóc lột trong một xã hội công
nghiệp, mà dùng chiêu bài giải phóng dân tộc qua lý tưởng đấu tranh cách mạng,
chống bạo quyền miền Nam và giặc Mỹ xâm lăng.
Bắc Việt biết cách sách động quần chúng trong
kết hợp đấu tranh chính trị và quân sự như là một chiến lược chung, đôi khi qua
các liên hệ với thân nhân trong miền Nam, vừa dùng tình cảm lung lạc, vừa đe doạ
khủng bố, đó cũng là một cách ràng buộc để làm cho người dân không ý thức chính
trị đi theo Cộng Sản. Kết hợp uyển chuyển này làm cho Bắc Việt thành công trong
mặt trận tình báo và nội tuyến.
Sau ngày chiến thắng, tin tức về sự đóng góp của
giới ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng Sản ngày càng nhiều hơn, đa số nay đã sáng mắt
khi nhận ra bản chất của chế độ.
Đối với Đảng viên, nghệ thuật lãnh đạo tài
tình của ĐCSVN là biết đồng hoá vận mệnh của Đảng, dân tộc, cá nhân, gia đình,
tập thể và xã hội vào trong một lý tưởng đấu tranh chung; vì tất cả hoà nhập,
nên tất cả phải tuân phục kỷ luật và có tinh thần hy sinh; cao cả nhất là hy
sinh cho Đảng và tổ quốc, vì đó là hạnh phúc của con người. Mỗi độ xuân về, “Mừng
Đảng và Mừng Xuân” là một khẩu hiệu quen thuộc trong chiều hướng thuần phục tuyệt
đối này.
Kết quả của sự tuyên truyền này là 1 triệu 1
thanh niên miền Bắc nằm xuống, 300.000 mất tích và 600.000 bị thương và thế hệ
thanh niên miền Bắc hy sinh cho chiến dịch 1975 là thế hệ cuối cùng.
Cơ chế lãnh đạo của ĐCSVN chặt chẽ nên tạo ra
một hình ảnh chung là đoàn kết, liêm chính, hy sinh, nghiêm mật và kiên cường.
Hồ Chí Minh được thần thánh hoá là hình ảnh cao đẹp của vị cha già dân tộc. Thần
tượng sụp đổ khi đời tư và công của Bác Hồ được lần lượt phơi bày. Bác Hồ chết
vào năm 1932 và Bác Hồ còn sống mãi trong lăng Ba Đình, từ di chúc cạo sửa cho
đến các chuyện tình của Bác, tất cà là bí mật quốc gia mà các sử gia thiếu can
đảm làm sáng tỏ.
Ngày nay, tình đồng chí trong ĐCSVN là các
thanh toán nhau đẩm máu để tranh giành quyền lực, tất cả sự thật hầu như đã
công khai hoá qua các phương tiện truyền thông xã hội.
Gần đây, các vụ án khác vẫn còn tiếp tục đúng
nghĩa trong tinh thần đấu đá nhau khốc liệt; ô nhục nhất là vụ án Đồng Tâm, một
lão đồng chí trung kiên cấp cơ sở bị sát hại vì tranh chấp đất đai chưa được giải
quyết.
Vô số tư liệu cho thấy nội bộ của ĐCSVN lệ thuộc
Trung Quốc, nên chuyện hèn với giặc và ác với dân không còn gây ngạc nhiên cho
công luận.
Vinh quang nhất cho Bắc Việt trong Hiệp định
Paris là Lê Đức Thọ lừa đảo được công luận quốc tế và Kissinger. Nhưng toàn diện
hơn là ĐCSVN lừa đảo được đồng bào Nam Bắc và Đảng viên trong cả một thời kỳ
dài khi lạm dụng lý tưởng đấu tranh cho giải phóng dân tộc và hành sử quyền dân
tộc tự quyết.
Dân tộc Việt Nam
Toàn dân Việt Nam phải trả một cái giá quá mắc
cho chiến thắng của đảng CSVN là vì có hơn 1,5 triệu đến 2 triệu người chết và
300.000 người mất tích.
Người dân miền Bắc thua mà không biết, vì lý
tưởng cao đẹp bị lừa dối. Đau xót nhất là những người nằm xuống, không còn có
cơ hội biết được sự thật về ý nghiã của cuộc chiến tranh “giải phóng“ khi xưa
và hiểm hoạ diệt vong ngày nay.
Người dân miền Nam cho dù còn sống, biết rõ mà
vẫn thua, vì không tránh khỏi các biện pháp tiến nhanh, tiến mạnh lên XHCN; thảm
kịch học tập cải tạo và thuyền nhân là hai thí dụ bi thương của phe thua cuộc.
Lãnh đạo chiến thắng huy hoàng nhưng lại tiếp
tục để cho binh sĩ thua. Là nạn nhân của một chính sách sai lầm, nên binh sĩ chịu
thêm hai cuộc chiến tranh Tây Nam và Trung Việt. Còn lại gì cho sự hy sinh của
họ? Người nằm xuống không được tưởng niệm và người còn sống không được ghi công
là hai thí dụ.
Thế hệ hậu chiến thua vì không có kiến thức
chính xác về lịch sử đấu tranh của dân tộc. Các thành tích của các sử gia là
bóp méo tài tình khi biên soạn các sách về chiến tranh chống Mỹ, đặc biệt nhất
là sự thật về thảm sát Mậu Thân tại Huế. Chiến tranh Trung-Việt được ghi lại có
11 dòng để truyền lại cho hậu thế học tập là thí dụ điển hình.
Do nền giáo dục lạc lối, nên đa số không được
học tập các giá trị dân chủ. Khi không có kinh nghiệm sống trong một thể chế
dân chủ, nên vô cảm trước các chính sự trong nước và chính biến ngoài nước là
chuyện đương nhiên.
Cuối cùng, những người có thành tâm muốn hoà
giải quốc gia và hoà hợp dân tộc cũng thua, vì không có chổ đứng trong lòng dân
tộc.
Trước đây, trong hào quang chiến thắng, phe thắng
cuộc tự hào là đỉnh cao trí tuệ cùa loài người, nên hạ nhục nhân phẩm phe đầu
hàng. Cho đến nay, dù có hình thức khiêm tốn hơn, nhưng các biện pháp hoà giải
và hoà hợp dân tộc đều thất bại.
Kết luận
Chuyện thắng thua sau ngày 30 tháng 4 năm 1975
là lỗi thời mà toàn dân tộc bị thua là thời sự trong năm 2021. Lịch sử đang tái
diển, hung đồ xâm lược của phương Bắc rõ rệt, nên vận nước thật mong manh và thảm
hoạ diệt vong là hiện thực.
Không còn kẻ thắng người thua, mà cũng không
ai biết rõ còn bao lâu nửa và phải làm gì cụ thể để thay đổi về vận mệnh của đất
nước.
Do đó, có còn chăng là sự tỉnh thức trong
chúng ta, một khả năng tự soi sáng và tự quyết định mà toàn dân Đông Âu là
thí dụ.
Tỉnh thức thân phận là vấn đề kiến thức; xác định
ý muốn để thay đổi là vấn đề quyết tâm. Nếu còn sống trong vô cảm, mang tâm trạng
nô lệ tự nguyện hay còn Đảng còn mình và chờ đợi hạnh phúc giả tạo do Đảng,
Trung Quốc, Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế ban phát, thì người dân sẽ còn tiếp tục
thua trong đau khổ. Không ai có phép lạ để chuyển hoá đất nước thay cho chúng
ta. Vấn đề là sự chọn lựa.
Chúng ta cùng giúp nhau tỉnh thức trong tình tự
dân tộc là một hy vọng khởi đầu: Đất nước đang nguy cơ, sức mạnh của toàn dân sẽ
đem lại giải pháp và quyền dân tộc tự quyết là phương tiện. Cầu xin hồn thiêng
sông núi và các bậc tiền nhân phù hộ cho chúng ta. May ra, một phép lạ nào đó
cho đất nước sẽ đến sau.
***
Bài viết là một trích đoạn trong bài Richard Nixon, Henry Kissinger và Sự Sụp Đổ Của Miền Nam được
tác giả cập nhật và tu chỉnh. Nội dung chính không thay đổi.
Các bài khác về Chiến
tranh Việt Nam đã phổ biến trên trang nhà: https://kimthemdo.com/
No comments:
Post a Comment