https://www.facebook.com/thuyman.tran.54/posts/1439411233063644
Chào các bạn,
Hưởng ứng lời kêu gọi viết về tháng Tư và vì
sao chúng ta có mặt ở nơi đây với một số báo Việt ngữ hải ngoại, tôi có viết
bài hồi ký gồm hai phần, xin được chia sẻ dưới đây.
Cầu chúc cả nhà một cuối tuần vui vẻ!
**************
ĐÁNH MẤT QUÊ HƯƠNG
PHẦN
I
Con người chúng ta không có quyền chọn lựa để
được sinh ra đời. Hơn thế nữa, được chọn lựa để sinh ra là dân tộc này chứ
không phải là dân tộc khác. Bởi lẽ nếu chúng ta được quyền chọn lựa, không biết
được bao nhiêu phần trăm dân Việt Nam thực sự vẫn muốn chọn cái số phận của
mình?
Nhiều lúc tôi nhớ về cái tuổi thơ của tôi vào
cái thời trước khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc. Nơi gia đình tôi sống
lúc ấy là một thị trấn nhỏ miền Trung, thuộc vùng Quốc gia, nhưng vẫn bị cộng sản
quấy nhiễu luôn luôn. Ngôi nhà của gia đình nằm ngay phía trước Tòa Hành Chánh
Quận Lỵ, mục tiêu để cộng sản thỉnh thoảng nã pháo vào. Gặp tay chỉ điểm tồi,
cung cấp tin tức sai, họ bắn lệch một chút thì xem như cả xóm nhà tôi được lên
thiên đường sớm.
Hầu hết mọi nhà trong thị trấn đều có một cái
"hầm cát". Các bạn thế hệ sau này chắc không hiểu nổi ý nghĩa của từ
này. "Hầm cát" là một loại công sự để tránh mảnh bom, xây dựng lên từ
những cây trụ sắt xây hàng rào và những bao chứa cát chiều dài độ bảy tám tấc,
chiều ngang độ ba bốn tấc. Khi mảnh bom văng vào, cát trong bao sẽ làm giảm tốc
độ của mảnh bom, giữ nó lại, và người ẩn náu bên trong sẽ không bị thương. Điều
lạ lùng là cái công sự này được xây bên trong nhà, vì khi pháo kích thì người
ta thường nã bất kể ngày hay đêm. Tiện lợi hơn hết là xây ngay trong một căn
phòng chính của gia đình. Đôi khi nửa đêm nghe tiếng pháo kích, vừa lăn xuống
giường thì bò được ngay vào hầm cát!
Hầm cát nhà tôi bên trong cao độ hơn một mét,
chiều rộng một mét rưỡi, chiều dài hơn hai mét. Một bên là tường, ba mặt còn lại
là những bao cát chồng dựng lên nhau thành ba mặt như ba bức tường còn lại của
căn hầm, với những thanh sắt chen ở giữa ,để giúp giữ vững cái công trình xây dựng
kỳ quặc mà chỉ trong thời chiến tranh con người ta mới có đủ trí tưởng tượng để
làm được.
Lớn lên cùng với nó cho nên chúng tôi cũng
không mấy hãi hùng với cái cảnh một cái lô cốt ngay trong phòng ngủ của ba mẹ.
Đôi lúc tôi và mấy đứa em còn vào trong đó chơi đồ hàng.
Mỗi sáng trước khi đi chợ, mẹ dặn đi dặn lại hễ
nghe tiếng "đề pa”( tiếng vọng của canon khi người ta bắn đi), thì mấy chị
em phải nhanh chân dắt nhau chạy vô trốn trong hầm cát. Tôi lớn nhất, mẹ dặn phải
có nhiệm vụ coi ngó, chắc chắn là đủ hết ba đứa em vào trước rồi mình mới vào
sau cùng. Một lần mẹ đang ở ngoài chợ thì có một trận pháo kích như vậy. Tim
tôi như thắt lại không biết mẹ làm sao tránh bom. Mấy chị em cũng niệm Phật cầu
cho ba mẹ được bình an, đứa nầy ráng gào to hơn đứa kia, thật ra là để trấn át
nỗi kinh hãi đang dâng cao trong lòng mình. Tàn cuộc pháo kích ngày hôm đó, hôm
sau đi học tôi được nghe mấy đứa bạn kháo nhau câu chuyện ba của nhỏ bạn trong
lớp, bị sức ép của trái pháo, văng lên trên trời hai, ba mét rồi mới rớt xuống
chết tươi, trước mặt thiên hạ đang đông cứng người vì kinh sợ.
Chị em chúng tôi được ba may cho mỗi đứa một cái
túi hai ngăn, túi của đứa nào nấy nhớ, và cất vào chỗ tiện lợi, dễ thấy nhất
trong nhà, khi chạy giặc thì mỗi người phải nhớ mang túi của mình. Những chiếc
túi này có dây đeo ngang qua vai, trong đó ba cẩn thận xếp vào mấy gói đồ ăn
khô, gạo rang, kẹo chanh. Quan trọng nhất là một mảnh giấy ép plastic để không
bị thấm nước, trên đó ghi tên tuổi của từng đứa chúng tôi, tên cha mẹ và địa chỉ
nhà, lỡ khi loạn lạc mất nhau vẫn còn cơ hội để tìm lại gia đình. Em út của tôi
lúc đó nói còn chưa sõi…
Mùa hè đỏ lửa năm 72, chạy đi rồi trở về… một
phen kinh sợ nhưng rồi trật tự và niềm tin quay lại với mọi người. Cho đến ba
năm sau, năm 75…
Ký ức đọng lại ở một buổi chiều Vạn Giã, Cam
Ranh với mây đen u ám, với bầu không khí sũng nước và nặng nề báo hiệu trời sắp
mưa, mẹ vừa mới cho chúng tôi ăn qua quít bữa tối cho xong, thu gọn lại hành
lý, chờ đến tối thì người chủ nhà sẽ chèo thuyền đưa chúng tôi ra ngoài khơi,
nơi có chiếc thuyền cứu trợ của Tân Tây Lan đang chờ, đưa chúng tôi chạy tiếp về
hướng Nam. Suốt gần hai tháng nay, chúng tôi cứ chạy triền miên như thế, cứ nhắm
về hướng Nam mà chạy, với cái hy vọng nếu họ có chiếm dần, thì mình cũng vẫn
thuộc về miền Nam...Điều lạ lùng là chẳng một ai chạy theo chiều ngược lại, để
được “giải phóng”!
Chiều hôm trước đó, chúng tôi nghỉ chân ở một
ngôi chùa không xa Quốc lộ Một. Tình hình ngoài phố vô cùng hỗn độn. Kho súng,
kho gạo đã bị người ta phá tung, chính quyền không còn nữa, thiên hạ mạnh ai nấy
nhào vô hôi của. Những thanh niên mới lớn hăng tiết vịt, chạy vào kho súng kiếm
mỗi người một khẩu bắn loạn xạ. Bát nháo và hoảng loạn ở khắp nơi…
Không biết có linh tính hay sao, mẹ lại đưa
chúng tôi ra khỏi ngôi chùa. Một người nào đó mẹ gặp trên đường đã nói đến những
chiếc thuyền lớn đang đậu ngoài khơi chờ dân di cư để mang họ đi xa hơn về phía
Nam. Chúng tôi rời ngôi chùa lúc chiều thì tối hôm đó ngôi chùa bị trúng pháo
và bốc cháy. Nhiều người chết và bị thương...
Mỏi mệt, và vì không uống đủ nước nên người
tôi khô rốc như sắp đổ bệnh, chẳng muốn ăn gì. Tôi nghĩ đến ba tôi, gia đình đã
lạc mất ba từ lúc rời Nha Trang, và ứa nước mắt không biết bây giờ ba ra sao.
Tôi nhìn mấy đứa em ở tuổi chơi đùa mà giờ này đã khôn ngoan đến không dám nói
một tiếng lớn, gây một tiếng động, vì sợ làm cho mẹ rối rắm thêm. Tôi nghĩ đến
thầy cô và bạn bè, giờ tan tác mỗi người một hướng, chẳng biết ai còn ai mất.
Tôi nghĩ đến những đứa trẻ bằng tuổi tôi ở một đất nước khác, giờ đây chắc hẳn
đang ở trong ngôi nhà ấm cúng của mình học bài, và sáng mai đây, chúng có thể đến
trường một cách hết sức bình thường, hoàn toàn không nhận ra rằng chúng đang hạnh
phúc biết bao! Và tại sao tôi và các em tôi lại phải ở đây, trong cái ngôi nhà
xa lạ, leo lét ánh đèn dầu ở một xóm chài heo hút? Tôi nghĩ đến sự bất công mà
những đứa bé như tôi phải chịu đựng trong cái đất nước chiến tranh ly loạn
này...
Nhưng cái buổi chiều hôm u ám đó chỉ mới là
cái tiền đề cho hàng chục năm u ám và lận đận tiếp theo của gia đình tôi. Bởi
vì dân miền Nam chúng tôi đã được “giải phóng”!
PHẦN
II
Ký ức tôi đôi khi quay về một buổi chiều ở đảo
Phú Quốc. Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1975.
Nói về buổi chiều này thì phải đi ngược lại mấy
tuần trước đó, một ngày cuối tháng Ba, khi Ba tôi phải ở lại căn nhà mướn ở Nha
Trang để coi ngó đồ đạc gia đình mang vào từ quê, trong khi một số người thân,
mẹ và mấy nhóc chúng tôi tìm cách hướng xa hơn về phía Nam. Dự định ba sẽ tìm
cách đi sau, nhưng chúng tôi đã lạc nhau từ đó, hỗn loạn xảy ra và đường bộ giữa
Nha Trang và Cam Ranh đã bị cắt đứt.
Tìm được một mối liên lạc đưa người tản cư ra
những chiếc tàu lớn đang đậu ngoài khơi, chúng tôi đành phải đi trước. Khi chiếc
thuyền nhỏ của người đánh cá đưa gia đình chúng tôi ra khơi thì đã có những người
cứu nạn chờ sẵn trên các ca nô. Chỉ có mấy chiếc ca nô này mới có thể áp sát được
vào chiếc tàu thủy lớn. Đêm tối nhưng ánh sáng từ những ngọn đèn trên boong tàu
có thể soi đến một vùng quanh nó. Từ chiếc ca nô này người ta có thể leo lên những
chiếc thang dây được thả xuống cho những người tản cư chúng tôi. Người lớn dặn
chúng tôi phải ôm chặt vào cổ họ khi được cõng lên thang vì cả hai tay họ đều bận.
Không cần dặn, chúng tôi cũng ôm thật chặt bởi vì chúng tôi biết sinh mạng mình
hoàn toàn gắn chặt với vòng tay ôm người lớn cõng mình: Cách đó chỉ mấy phút, một
người đàn ông cõng mẹ đi lên thang dây, bà cụ có lẽ già yếu lơi lỏng tay, bà rớt
xuống nước vừa lúc chiếc ca nô dập dềnh rời xa thành tàu. Những người xung
quanh chỉ có thể nghe một tiếng bõm nhỏ là bà đã mất tăm trong làn nước tối
đen. Người thân của bà kêu khóc não lòng :"Mẹ ơi! Mẹ ơi!", nhưng xung
quanh trong cơn hỗn loạn, ai cũng lo lấy thân mình, không ai nghĩ đến việc kêu
cứu những người trên con tàu lớn. Tất cả đã xảy ra trước mắt chúng tôi như một
đoạn phim kinh hoàng được chiếu rất nhanh
Lên đến boong tàu, vừa đếm lại đầu người trong
gia đình, chúng tôi vừa mừng vì mọi người đã đủ cả, thì con bé em út bỗng dưng
khóc òa. Nó hỏi "Ba đâu? Ba đâu?", trong khi nó biết ba không có mặt
với gia đình đã cả tuần nay. Vốn mê tín và đang rối bời, mẹ tôi nghĩ đến một điềm
gở...
Những người di cư có thể tìm chỗ cho mình
trong khoang thứ hai và thứ ba, kể từ boong tàu, nhưng ở đó được một đêm thì cảm
thấy không khí rất ngột ngạt, mẹ tôi mới đi lên xem xét tầng trên cùng... Mẹ
tìm được một góc dưới chân một cầu thang trên boong tàu và kéo cả nhà lên trú ẩn
ở nơi đó. Không phải lúc nào cũng có bóng mát ở cái góc đó, nhưng không khí thì
thoáng đãng vô cùng. Người lớn dùng những tấm khăn lớn và mền để làm thành một
cái lều nhỏ che nắng.
Được nửa ngày như thế thì chúng tôi bắt đầu đói
và không đủ nước uống. Chiếc tàu lớn này là của New Zealand, một trong những
chiếc tàu tình nguyện làm việc nhân đạo cứu người tản cư từ miền Trung vào Nam.
Họ có nước uống trên tàu, nhưng dĩ nhiên không có đủ cho con số vài ngàn người
nhiều hơn dự định. Để tránh tranh giành, họ kêu gọi người dân sắp hàng để nhận
nước và một hộp đồ ăn khô, nhận xong họ đóng mộc lên tay người nhận để làm dấu
người đã nhận rồi. Nhiều người nhận xong, tìm cách chùi dấu mực, rồi quay lại
hàng để nhận lần nữa.
Bọn nhỏ chúng tôi chỉ đủ nước cầm chừng do người
lớn nhường cho, và có lẽ biết thân, hay không còn đủ sức, chúng tôi nằm xếp một
chỗ. Mẹ tôi tháo vát, biết tìm cách nấu cơm, đã nấu được một nồi cơm nhỏ, gạo
mua được với giá vô cùng đắt từ gia đình hai người "hàng xóm" nằm cạnh
chúng tôi. Không biết ở đâu người lớn tìm được một ít muối và chúng tôi được
cho mỗi đứa một vắt cơm với muối hột.
Bắt đầu từ ngày thứ hai trên tàu tràn lan một
cơn dịch đau mắt đỏ. Ai đó đã bị mắc phải, và điều kiện thiếu vệ sinh trên tàu
đã làm phần lớn chúng tôi bị vướng nạn này. Sáng dậy, mẹ tôi phải hòa muối vào
nước ấm, rửa mắt cho từng đứa, chúng tôi mới "mở mắt" ra nổi. Nhờ
tính chất sát trùng của muối, chúng tôi đã không bị nặng như nhiều người khác
trên tàu.
Cuối ngày thứ ba chúng tôi đã ở ngoài khơi gần
cảng Sài Gòn, nhưng không được phép lên bờ vì tình hình chính trị đang lộn xộn.
Sau đó thì người ta quyết định đưa chúng tôi ra thẳng đảo Phú Quốc.
Phú Quốc ngày đó còn rất thưa dân, không đủ chỗ
chứa chúng tôi trong thị xã, người ta đưa chúng tôi đi qua một vùng đất khô rốc
và quạnh hiu, độ đâu chừng hơn chục cây số thì đến ở tạm các lán giữa rừng trước
đây dành cho tù nhân, giờ đã bỏ trống. Mỗi gia đình được phân chia một hay hai
sàn gỗ trong lán. Mỗi lán có hai hàng sàn gỗ như thế ở hai bên, mỗi bên có độ
10 sàn gỗ. Lán có hai cửa vào từ hai đầu, nhưng ai cũng có thể vào ra tự nhiên
vì không có cửa nẻo gì cả. Như vậy những người tù ở đây đã có được một sự tự do
ở một mức độ giới hạn nào đó. Nói cho cùng, rất khó để tù nhân trốn thoát vì
không có làng mạc gần đây, và thị xã thì ít nhất cách nơi này 15 cây số.
Sàn gỗ cao đến khoảng rốn người lớn, trên đó
có thể ngủ được hai người lớn, hay bốn năm đứa nhóc nếu nằm theo chiều ngang. Mẹ
và bốn chị em chúng tôi được phân chia một sàn như thế. Một buổi trưa ngủ không
được, tôi trở người quay mặt vào bức tường gỗ và nhận ra có những dòng chữ nhỏ
li ti rất đẹp, đúng ra là những công thức toán học, tôi đoán thế vì nó trông giống
với những công thức trong quyển sách toán lớp 11, 12 của người anh họ, tôi thấy
được trong những lần tò mò mở ra xem. Lần đầu tiên tôi thấy được một khía cạnh
khác của những người tù, họ không hẳn chỉ là những người gian ác, đầy tội lỗi
như định kiến tôi từng có từ những điều nghe đến về họ...
Nhỏ em út lại khóc:"Ba đâu? Ba đâu rồi?"
Thiệt tình! Nó không hiểu mấy lời nó kêu khóc làm cho người khác quặn ruột thế
nào...Một lần nữa sự mê tín lại khiến mẹ tôi lo lắng miên man.
Ông nội viết lên giấy một tờ yết thị:
"Cha mẹ, và vợ con ...(tên tuổi, quê quán) đã đến được nơi đây...tìm con
trai là (tên tuổi, quê quán). Nếu con có thấy được tin này thì hãy tìm mọi người
ở trại số... này. Nếu ai thấy được dòng này và có thể nhắn tin đến con trai
tôi, gia đình chúng tôi vô vàn biết ơn."
Buổi chiều ông nội đi dán mấy tờ yết thị, dẫn
tôi đi theo. Nhìn mấy cái bảng chằng chịt những tờ giấy đủ màu, đủ kiểu chữ, được
gắn phong phanh, và chúng bay phần phật trong gió, tôi đã nghĩ, nếu ai tìm được
thân nhân từ những tờ giấy này ắt hẳn là chuyện nhiệm mầu.
Nhưng chuyện nhiệm màu đã xảy ra một buổi chiều
cách đó mấy hôm khi chúng tôi đang quây quần ăn bữa tối thì nghe một giọng nói
quen thuộc, cùng lúc một bàn tay đặt lên đầu vuốt tóc nhỏ em út: "Cha! Mẹ!
Cả nhà ơi!" Ôi ba tôi, bằng xương bằng thịt đứng trước mặt chúng tôi. Cả
nhà ôm nhau khóc, nhỏ những giọt nước mắt vui mừng.
Mấy hôm sau, một buổi chiều đầu tháng Tư, buổi
chiều đọng lại trong ký ức, tôi vẫn còn nhớ chúng tôi chơi quanh quẩn gần đó
trong lúc mẹ và mấy người lớn đang vo gạo, giặt giũ bên cái giếng nước chung đầu
trại (một điểm lạ là bị vây bọc bởi biển khơi nhưng nước ở đảo này rất trong và
ngọt), thì có mấy người lớn chuyền nhau cái tin: chẳng bao lâu nữa người ta sẽ
tụ họp mọi người lại để đưa chúng tôi tản cư qua Thái Lan, với tình hình này miền
Nam cũng có thể mất luôn với cộng sản. Những người lớn nói với nhau tin đó với
một vẻ lo lắng, ái ngại tột cùng. Có người bắt đầu mếu máo :"Ruộng nương mồ
mả ông bà mình còn cả ngoài quê (miền Trung), giờ người ta đưa mình qua bên
Thái Lan để làm gì?", có người nói :" Chắc phải tìm cách trốn trại,
tìm đường về Sài Gòn rồi từ từ sẽ tìm đường về quê." Rồi họ ôm nhau khóc.
Thế là mấy hôm sau, cũng với tài tháo vát của
mẹ tôi, chúng tôi đã là một trong những gia đình đầu tiên trốn trại, dắt díu
nhau về Sài Gòn, sống ở đó với gia đình cậu tôi ba tuần trước khi Sài Gòn thất
thủ.
Một số người không có phương tiện trốn đi, đã ở
yên lại trại và sau đó dù muốn hay không họ cũng được đưa qua Thái Lan vào những
ngày cuối cùng của tháng Tư năm đó.
Phần gia đình tôi ở lại Sài Gòn khoảng một
tháng thì bồng trống về quê cũ, để được gắn bó với mồ mả ông bà, với nơi chôn
nhau cắt rốn. Sự thật thì chúng tôi quay về để nếm trải ngọt đắng "thiên
đường" nhiều năm trước khi dồn hết của cải dành dụm được để lại từ bỏ mồ mả
ông bà, quê hương một lần nữa lao mình vào những cuộc phiêu lưu đầy bất trắc,
hiểm nghèo, gian nan trên biển khơi.
No comments:
Post a Comment