Khủng
hoảng Myanmar và câu chuyện về can thiệp nhân đạo
VINCENTE NGUYEN - LUẬT
KHOA
17/03/2021
https://www.luatkhoa.org/2021/03/khung-hoang-myanmar-va-cau-chuyen-ve-can-thiep-nhan-dao/
Những
gì đang xảy ra tại Myanmar là một tình huống kinh điển cho việc can thiệp nhân
đạo.
Ảnh:
Bangkok Post. Đồ họa: Luật Khoa.
Thiệt hại nhân mạng, việc quân đội xem thường tính
mạng của người dân và tính chính danh của một chính quyền đảo chính, tất cả
trộn lẫn tại Myanmar khiến cho người viết không thể không nghĩ đến một khái
niệm pháp lý khét tiếng trong công pháp quốc tế: can thiệp nhân đạo (humanitarian
intervention).
Can thiệp nhân đạo là một chủ đề nghiên cứu lớn.
Giới học giả, luật sư quốc tế, các viện nghiên cứu cũng như các quốc gia trên
thế giới đã tiêu tốn bốn thập niên để hình thành, xây dựng, thảo luận và đến
nay vẫn còn tiếp tục tranh cãi về nó.
Bài viết này sẽ không thể cho bạn đọc một câu trả
lời trắng đen rõ ràng về cơ sở pháp lý của can thiệp nhân đạo, hay trình bày
đầy đủ lý lẽ để áp dụng hay không áp dụng chúng. Bài viết cũng không nhằm cổ vũ
hay khuyến khích việc áp dụng can thiệp nhân đạo tại Myanmar.
Tuy nhiên, trên phương diện khoa học pháp lý của
công pháp quốc tế, những gì đang xảy ra tại Myanmar có thể xem là một tình
huống sách giáo khoa (textbook case), tức đã đầy đủ các tiêu chuẩn để áp
dụng “humanitarian intervention”. Dưới đây là một số thuật ngữ pháp lý tiếng
Anh trong ngữ cảnh nghiên cứu liên quan đến khái niệm này để bạn đọc tham khảo.
Can thiệp nhân đạo là gì?
Can thiệp nhân đạo là bài toán giữa chủ quyền quốc
gia (sovereignty) hay quyền quốc gia (state rights) với quyền lợi
và sự phát triển của nhân loại (humanity) hay quyền con người nói chung
(human rights). Như vậy, dựa trên danh nghĩa “humanity”, một quốc gia (state),
một liên minh quốc gia (coalition of state) hoặc tổ chức quốc tế (international
organisation) sẽ chủ động can thiệp vào công việc nội bộ (internal
affair) của một quốc gia nhất định.
Liên Hiệp Quốc (United Nations – UN) là tổ
chức quốc tế được kỳ vọng sẽ thực hiện các hoạt động can thiệp nhân đạo khi cần
thiết. Ảnh: UN Photo.
Vậy cơ sở để các quốc gia này tiến hành
“humanitarian intervention” được diễn giải cụ thể ra sao? Chúng ta có thể chia
các cơ sở ra làm hai nhóm điều kiện.
Đầu tiên là điều kiện khách quan, tức có những vi
phạm nhân quyền nghiêm trọng, gây ảnh hưởng cơ bản đến đời sống và quyền lợi
của chính công dân quốc gia đó. Điều kiện này thường được diễn tả với các thuật
ngữ như “gross violation of human rights”, “serious breach of human
rights” hay “systematic violations of human rights”.
Không quá khó để chứng minh những vi phạm nói trên
đang xảy ra. Các hành vi như giết hại hoặc đàn áp một cách có tổ chức nhắm đến
người biểu tình (systematic murdering or persecution), cưỡng bức trục
xuất (forced expulsion), thanh lọc sắc tộc (ethnic cleansing) hay
nghiêm trọng nhất, diệt chủng (genocide) đều là những hành vi để lại hậu
quả nghiêm trọng, có thể được cộng đồng quốc tế quan sát, thu thập được bằng
chứng rõ ràng.
Kể
từ khi quân đội đảo chính vào ngày 1/2, có ít nhất 149 người dân Myanmar đã bị
giết. Ảnh: Stringer/ EPA-EFE/ Shutterstock.
Điều kiện thứ hai quan trọng không kém điều kiện
đầu tiên nhưng lại khó chứng minh hơn, đó là mục tiêu và ý thức của chính phủ
đương nhiệm đại diện quốc gia đó (incumbent government).
Có hai trường hợp có thể xảy ra.
Hoặc là họ không có khả năng bảo vệ người dân của
đất nước mình (incapable to protect its own people). Hoàn cảnh này có
thể xảy ra khi chính quyền trung ương không còn quản lý hiệu quả một phần hoặc
toàn bộ lãnh thổ quốc gia (ineffective government), và vì vậy, trật tự
dân sự (civil order) của quốc gia không còn. Trong bối cảnh này, các
nhóm quân sự (military group) hoặc các lãnh chúa quân sự (warlord)
thường là nhóm thực hiện các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng mà chúng
ta nhắc đến ở trên.
Trường hợp thứ hai là bản thân chính phủ đương
nhiệm chủ động đàn áp (deliberately and actively persecuting its people).
Chủ động ở đây bao hàm cả các hành vi hoàn toàn gián tiếp như xúi giục (instigating),
tạo điều kiện (facilitating) và phớt lờ (ignoring) các hành vi vi
phạm nhân quyền của các nhóm dưới quyền của mình.
Can thiệp nhân đạo cần dựa trên nền tảng pháp lý
nào?
Cách hiểu về “humanitarian intervention” phổ biến
nhất là liên quan đến các hành vi quân sự (military action). Một số học
giả đề nghị bao hàm cả trừng phạt kinh tế lên chính phủ (economic sanction)
trong nhóm can thiệp nhân đạo, tuy nhiên cách tiếp cận này vẫn chưa quá phổ
biến. Trở lại với “military action”, chúng ta lại có thể dùng các thuật ngữ
khác nhau để mô tả chúng.
Cách hiểu về can thiệp nhân đạo phổ biến nhất
là liên quan đến các hành vi quân sự (military action). Trong ảnh là lực lượng
gìn giữ hòa bình (peacekeeping forces) của Liên Hiệp Quốc. Ảnh: UN Photo.
Trước tiên là các hành vi quân sự đơn phương và
không được ủy quyền (unilateral and unauthorised) . Các hành vi quân sự
đơn phương, hiểu đơn giản, do một hoặc một nhóm các quốc gia thực hiện mà không
có sự đồng thuận chung của cộng đồng quốc tế. Còn khi dùng thuật ngữ không được
ủy quyền (unauthorised), chúng ta lại muốn nhấn mạnh một hành vi quân sự không
được Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (Security Council) trực tiếp cho
phép, thông qua nghị quyết của mình. Với cách hiểu này, “unilateral” và
“unauthorised” sẽ thường đi cùng nhau.
Trái ngược với nhóm hành vi ở trên là các hoạt động
quân sự được sự cho phép của Hội đồng Bảo an. Trong bối cảnh này, thuật ngữ “peacekeeping”,
hay gìn giữ hòa bình, phổ biến hơn cả.
Quan sát bên ngoài thì có vẻ rất rõ ràng là nhóm
hành vi quân sự “unilateral” và “unauthorised” là vi phạm pháp luật quốc tế,
không được hoan nghênh, còn “peacekeeping” mới là chuẩn mực của “humanitarian
intervention”.
Vấn đề là, khi cần thì Liên Hiệp Quốc lẫn Hội đồng
Bảo an lại hay… lảng tránh.
Ví dụ như cuộc diệt
chủng ở Rwanda năm 1994. Đó là trường hợp cộng đồng quốc tế nhìn thấy
trước, Hội đồng Bảo an đã được cảnh báo trước về khả năng diệt chủng người
Tutsi của chính quyền Hutu, tuy nhiên cuối cùng vẫn không có hành động ngăn
chặn nào được đưa ra. Nó cho thấy các yếu tố chính trị và tính quan liêu của
Liên Hiệp Quốc là một vấn đề lớn, làm giảm hiệu quả hoạt động của tổ chức này.
Việc Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc không thể đưa
ra một nghị quyết đàng hoàng về tình trạng tại Myanmar (với Ấn Độ, Trung Quốc,
Việt Nam và Nga ngáng đường) cho thấy rõ sự bất lực này.
Trong khi đó, những “military intervention” không
được ủy quyền lại có hiệu quả hơn hẳn. Can thiệp quân sự của NATO vào nạn thanh
lọc sắc tộc và diệt chủng tại Yugoslavia (Nam Tư cũ), nội chiến Serbia hay kể cả tại
Kosovo đều ngăn chặn các vi phạm nhân quyền nghiêm trọng và có hệ thống, chí ít
là khiến chúng không tồi tệ hơn.
Có phải chỉ các nước lớn mới can thiệp nhân đạo?
Trong bốn thập niên tranh cãi, tính từ đầu những
năm 1970, “humanitarian intervention” có một lịch sử khá dày dặn dù luôn vấp
phải các phản đối về lý thuyết lẫn thực tiễn. Cũng cần lưu ý rằng không phải
chỉ có những có ông lớn trong quan hệ quốc tế mới vận dụng khái niệm này.
Ấn Độ từng sử dụng can thiệp nhân đạo để hỗ trợ
người dân Bangladesh trong cuộc chiến giành độc lập trước Pakistan (Bangladesh
Liberation War). Tanzania từng can thiệp nhân đạo vào Uganda và từ đó lật đổ
lãnh đạo độc tài Idi Amin. Việt Nam cũng đã từng viện dẫn “humanitarian
intervention” để can thiệp vào nội bộ Campuchia, đánh đổ lực lượng Khmer Đỏ vào
năm 1978, và chiếm đóng quốc gia này tròm trèm mười năm (military occupation).
Việt Nam đưa quân vào Campuchia năm 1978 với
lý do can thiệp nhân đạo. Ảnh: southeastasiaglobe.com.
Như kỳ vọng, tất cả những cuộc can thiệp này đều
được xem là vi phạm pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, chúng có cần thiết hay không,
như trong trường hợp Việt Nam can thiệp vào chế độ diệt chủng Campuchia, thì
lại là câu
chuyện hoàn toàn khác.
Thập niên 1990 thường được gọi là thập niên của can
thiệp nhân đạo (decade of humanitarian intervention), một phần vì Liên
Xô sụp đổ và trật tự thế giới có phần nghiêng về các lý tưởng cấp tiến của
phương Tây. Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ cùng các quốc gia đồng minh
châu Âu đều có thiện chí và sẵn sàng vận dụng can thiệp quân sự khi tình hình
nhân đạo tại một lãnh thổ xấu đi.
Hoa Kỳ từng được Hội đồng Bảo an chấp thuận để can
thiệp vào Somalia vào năm 1992 để bảo vệ các nguồn cung ứng viện trợ nhân đạo (humanitarian
aid) của Liên Hiệp Quốc tại khu vực. Vương quốc Anh từng thay mặt Liên Hiệp
Quốc lập vùng cấm bay (no-fly zone) cũng như gìn giữ hòa bình tại Sierra
Leone vào năm 2000 để bảo vệ thường dân khỏi hành vi vi phạm nhân
quyền của lực lượng nổi loạn (rebel forces).
No comments:
Post a Comment