Sự
vô cùng nguy hiểm của tư duy tuyệt đối là hoàn toàn hiển nhiên
26/03/2021
http://www.phantichkinhte123.com/2021/03/su-vo-cung-nguy-hiem-cua-tu-duy-tuyet.html#more
Khi
nghĩ về người lúc nào cũng hạnh phúc và biết cách điều chỉnh tốt nhất mà bạn biết
– bạn có thể nói gì về lối nghĩ của họ? Họ có phải là một người giáo điều, nhìn
thế giới bằng cái nhìn không-thỏa-hiệp không? Họ có đặt ra những yêu cầu cứng
nhắc đối với bản thân và những người xung quanh không? Khi phải đối mặt với những
căng thẳng và điều không may, họ có hay phóng đại và bị chúng ám ảnh không? Nói
tóm lại, họ có lối tư duy tuyệt đối không?
‘Tư
duy tuyệt đối’ đề cập đến các ý tưởng, cụm từ và từ để biểu thị cái toàn bộ, về
độ lớn hoặc xác suất. Những tư duy tuyệt đối hoàn toàn không tinh tế và bỏ qua
sự phức tạp của một chủ đề nhất định.
Nhìn
chung có hai kiểu tư duy tuyệt đối: một là ‘tư
duy nhị nguyên’ |dichotomous thinking| và hai là ‘mệnh lệnh nhất quyết’
|categorical imperative|. Tư duy nhị nguyên – còn được gọi là tư duy ‘trắng-đen-rõ-ràng’
hoặc ‘không-thỏa-hiệp’ – mô tả một quan điểm lưỡng phân, trong đó mọi thứ trong
cuộc sống là ‘cái này’ hoặc là ‘cái kia’, và không có gì ở giữa. Mệnh lệnh nhất
quyết là yêu cầu vô cùng cứng nhắc mà mọi người áp đặt lên chính họ và lên người
khác. Thuật ngữ này được mượn từ triết học luân lý duy nghĩa vụ |deontological
moral philosophy| của Immanuel Kant có nền móng từ một nguyên tắc đạo đức dựa
trên nghĩa vụ và quy luật.
Trong
nghiên cứu của chúng tôi – và rộng hơn nữa là trong tâm lý học lâm sàng – tư
duy tuyệt đối được xem như
một kiểu tư duy không lành mạnh, phá vỡ sự điều tiết cảm xúc và cản trở chúng
ta đạt được mục tiêu của mình. Tuy nhiên, tất cả chúng ta, trong những mức độ
khác nhau có xu hướng tư duy theo kiểu này - tại sao lại như vậy? Chủ yếu, bởi
vì như vậy dễ hơn nhiều so với việc xử lý những phức tạp thực sự của cuộc sống.
Thuật ngữ người lười nghĩ |cognitive miser|, do các nhà tâm lý học người Mỹ
Susan Fiske và Shelley Taylor giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1984, mô tả cách
con người tìm kiếm những lối nghĩ đơn giản và ít nỗ lực nhất. Các sắc thái và
phức tạp là tốn kém – phải tiêu hao thời gian và năng lượng quý giá mới tìm ra
- vì vậy bất cứ nơi nào có thể chúng ta cố gắng tiết kiệm. Đây là lý do tại sao
chúng ta có thiên kiến và định kiến, và hình thành thói quen. Đó
là lý do tại sao nghiên cứu về lối tắt tâm trí |heuristic| (những phán đoán
‘linh cảm’ trực giác |intuitive ‘gut-feeling’ judgment|) rất hữu ích
trong kinh
tế học hành vi và khoa học chính trị.
Nhưng
chẳng có bữa trưa nào là miễn phí cả; thời gian và năng lượng tiết kiệm được
thông qua lối tư duy tuyệt đối đều sẽ mất phí. Để định hướng cuộc đời thành
công, chúng ta cần hiểu rõ (các) sắc thái [cuộc đời], hiểu sự phức tạp [của cuộc
sống] và sở hữu sự linh hoạt [trong tư duy]. Khi đứng trước những vấn đề quan
trọng nhất trong cuộc sống của chúng ta - chẳng hạn như mục tiêu, mối quan hệ
và lòng tự trọng của chúng ta – nếu chúng ta rơi vào tư duy tuyệt đối thì thảm
họa sẽ ập tới.
Trong
một bài nghiên
cứu gần đây trên tạp chí Khoa học Tâm lý Lâm sàng |Clinical
Psychological Science|, tôi cùng cộng tác viên của mình, nhà thần kinh học
Tom Johnstone tại Đại học Reading ở Vương quốc Anh, đã kiểm tra mức độ phổ biến
của tư duy tuyệt đối trong ngôn ngữ tự nhiên của hơn 6.400 thành viên ở các
nhóm trao đổi về sức khỏe tinh thần |mental-health| khác nhau trên mạng
internet. Ngay từ đầu, chúng tôi đã dự đoán rằng những người trầm cảm, hay lo
âu và có ý định tự tử là những người có cái nhìn tuyệt đối, và điều này sẽ thể
hiện trong cách họ sử dụng ngôn ngữ. Khi so sánh với 19 nhóm chát có kiểm soát
trên mạng internet khác nhau về các chủ đề từ ung thư cho đến nuôi dạy con cái,
[chúng tôi nhận thấy rằng] mức độ phổ biến của từ ngữ tuyệt đối ở nhóm người trầm
cảm và nhóm người hay lo âu cao hơn gần 50%, còn ở nhóm người có ý định tự tử
thì cao hơn gần 80% [so với nhóm kiểm soát].
Nghiên cứu 1 – Từ ngữ tuyệt đối
Trước
đây, các dấu hiệu ngôn ngữ nổi bật nhất để nhận biết các rối loạn sức khỏe tinh
thần là việc sử dụng quá
nhiều các đại từ số ít của ngôi thứ nhất như ‘tôi’, ‘bản thân tôi’ và ‘Ta’,
cùng với việc giảm sử
dụng các đại từ ngôi thứ hai và ngôi thứ ba. Khuôn mẫu sử dụng đại
từ này phản ánh mức độ cô lập [cảm xúc] và tự tập trung phổ biến
trong chứng trầm cảm. Các từ ngữ mang cảm xúc tiêu cực cũng là một dấu hiệu ngôn
ngữ chắc chắn để nhận biết về các rối loạn sức khỏe tinh thần, tuy nhiên các
nhà nghiên cứu đã chỉ
ra rằng những đại từ đó thực sự là dấu hiệu đáng tin cậy hơn trong
việc xác định chứng trầm cảm. Chúng tôi nhận thấy rằng mức độ phổ biến của từ
ngữ tuyệt đối là một dấu hiệu nhận biết tốt hơn cả những đại từ lẫn các từ ngữ
mang cảm xúc tiêu cực. Chúng [những từ ngữ tuyệt đối] tạo ra sự khác biệt
giữa nhóm kiểm soát và nhóm có vấn đề về sức khỏe tinh thần lớn hơn so với đại
từ, và chúng cũng dẫn đến các nhóm có vấn đề về sức khỏe tinh thần tốt hơn so với
các từ cảm xúc tiêu cực. Nghịch lý thay, nhóm người hay lo âu và nhóm người
trầm cảm sử dụng những từ ngữ mang cảm xúc tiêu cực nhiều hơn so với nhóm người
có ý định tự tử.
Làm
thế nào mà chúng ta biết rằng việc sử dụng từ ngữ tuyệt đối nhiều hơn thực sự
phản ánh tư duy tuyệt đối, chứ không phải chỉ đơn giản phản ánh kết quả của các
cảm xúc cực đoan và nỗi đau tinh thần |psychological distress|? Trong nghiên cứu thứ
hai, chúng tôi đã tính toán mức độ phổ biến của những từ ngữ tuyệt đối trong
các nhóm có vấn đề về sức khỏe tinh thần liên quan đến tư duy tuyệt đối (rối loạn
nhân cách ranh giới và rối loạn ăn uống) với các nhóm có vấn đề về sức khỏe
tinh thần không liên quan đến tư duy tuyệt đối (rối loạn căng thẳng sau sang chấn
và tâm thần phân liệt). Tất cả các nhóm được chứng minh là có cùng mức độ đau
khổ tinh thần, nhưng chỉ những nhóm mà nhà nghiên cứu biết là có liên quan đến
tư duy tuyệt đối thì có sự gia tăng mức độ sử dụng các từ ngữ tuyệt đối. Điều
này khẳng định rằng việc sử dụng khá nhiều từ ngữ tuyệt đối là đặc trưng cho tư
duy tuyệt đối, mà không phải cho sự đau khổ tinh thần [ở một số người].
Mặc
dù có mối tương quan, nhưng chẳng có gì cho thấy tư duy tuyệt đối gây
ra chứng trầm cảm cả. Trong nghiên cứu thứ
ba, chúng tôi đã kiểm tra các nhóm mà những người tham gia tin rằng họ đã hồi
phục sau giai đoạn trầm cảm và viết những bài đăng tích cực, đáng khích lệ
về sự phục hồi của họ. Chúng tôi thấy rằng các từ ngữ mang cảm xúc tích cực được
sử dụng đã tăng lên gần 70%, nhưng họ vẫn tiếp tục sử dụng các từ ngữ tuyệt đối
ở mức độ cao, lớn hơn đáng kể so với các nhóm kiểm soát và gần hơn với nhóm người
hay lo âu và nhóm người trầm cảm. Điều quan trọng là những người trước đây
đã từng có các triệu chứng trầm cảm thì nhiều khả năng là
họ sẽ sử dụng chúng [những từ ngữ tuyệt đối] lại lần nữa. Do đó,
khuynh hướng tư duy tuyệt đối ở họ - ngay cả khi hiện nay không có triệu chứng
trầm cảm - là một dấu hiệu cho thấy nó có thể đóng vai trò gây ra các giai đoạn
trầm cảm.
Những
phát hiện này hỗ trợ cho các liệu pháp ‘làn sóng thứ ba’ gần đây đã được sử dụng
trong tâm lý học lâm sàng. Nổi tiếng nhất trong số này là phương pháp ‘chánh niệm’
|mindfulness|, nhưng tất cả chúng [những phát hiện này] đều ủng hộ cách nhìn
linh hoạt, chấp nhận và tự do khỏi các chấp trước. Một người ủng hộ sớm phương
pháp chánh niệm vào [tâm lý học lâm sàng] là nhà tâm lý học nổi tiếng John
Teasdale, người thu được hàng loạt dữ liệu thực nghiệm từ phòng thí nghiệm của
mình để hỗ trợ hiệu quả của phương pháp này. Trong một nghiên cứu mang
tính bước ngoặt vào năm 2001, Teasdale và các đồng nghiệp của ông tại Đại học
Cambridge đã phát hiện ra rằng một ‘lối tư duy nhị nguyên, tuyệt đối’ đã tiên
đoán khả năng tái phát trầm cảm trong tương lai.
Nhiều ý kiến cho rằng thế giới
là một nơi khắc nghiệt, và chính những căng thẳng và điều không may trong cuộc
sống khiến con người bị trầm cảm, chẳng liên quan đến lối nghĩ của họ. Thật sai
lầm! Vô số người phải chịu đựng những điều không may mà không bị trầm cảm hay
lo âu, trong khi những người khác dường như không phải trải qua điều không may
nào cả, nhưng vẫn bị tác động xấu từ sự trầm cảm và lo âu. Triết gia Khắc kỷ
(và từng là nô lệ) Epictetus [khoảng năm 50 – 135 CN] cho rằng ‘con người bất
an không phải là do sự vật, mà là do chính cách họ nghĩ về nó’. Đây là một ý kiến
hoàn toàn, cực kì và vô cùng chính xác.
***
Mohammed Al-Mosaiwi là một nghiên cứu
sinh ngành tâm lý học tại Đại học Reading ở Vương quốc Anh.
Pam Weintraub biên tập
Nguyễn Việt
Anh & Nguyễn
Trà Giang dịch
Nguồn: The
danger of absolute thinking is absolutely clear, Aeon, May
02, 2018.
No comments:
Post a Comment