In
Retrospect – Nhìn Lại: Của cha và con Steinbeck giữa chiến tranh Việt Nam
Ngô
Thế Vinh
30/03/2021
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/1-80.png
Hình 1: Giải Nobel Văn chương 1962 được trao
cho toàn sự nghiệp của John Steinbeck; nhà văn Mỹ thứ 6 được giải Nobel tiếp
theo sau Ernest Hemingway 1954. Nguồn: Nobel Foundation archive
JOHN STEINBECK, NOBEL VĂN
CHƯƠNG 1962
Sinh ngày 27/02/1902 tại
Salinas, miền trung California. Sống và lớn lên trong một vùng thung lũng đồng
quê xanh tươi, còn được gọi là “Salad Bowl” với dòng sông
Salinas. Xong trung học (1919), có ước vọng viết văn, Steinbeck ghi tên học môn
Văn chương Anh và cả lớp Viết văn / Creative writings tại Đại học danh tiếng
Stanford, Palo Alto. Năm 1923, Steinbeck ghi tên học thêm môn Sinh Học /
Biology tại Hopkins Marine Station, tại đây Steinbeck quen biết với William E.
Ritter và quan tâm nhiều hơn tới Môi sinh / Ecology.
Do theo học thất thường,
ông rời Stanford 6 năm sau (1925) và không có một học vị nào. Steinbeck quyết định
sang New York lập nghiệp, ông làm đủ loại công việc lao động tay chân để kiếm sống
và tập sự làm báo, viết văn nhưng không thành công, không nhà xuất bản nào nhận
in cuốn sách đầu tay của ông.
Trở về California 3 năm
sau (1928), Steinbeck cũng làm đủ mọi nghề, kể cả hướng dẫn du lịch ở Lake
Tahoe, nhưng vẫn túng quẫn. Ông dọn về sống trong căn nhà nhỏ của cha ở vùng
bán đảo Monterey; không phải trả tiền nhà lại được người anh giúp đỡ, không bận
bịu mưu sinh, ông tập trung viết văn. Nhưng cuộc sống lại chật vật khi cả
nước Mỹ bước vào thời kỳ Đại Suy Thoái. Steinbeck mua được một chiếc
tàu nhỏ, thử sống bằng nghề đánh cá ven biển, cá cua lưới bắt được cũng là nguồn
thực phẩm cho gia đình, còn rau tươi thì hái lượm ngay trong vườn nhà; vẫn
không đủ sống, vợ chồng ông phải sống bằng tiền trợ cấp xã hội / welfare.
Tuy vẫn viết nhưng
Steinbeck chưa gây được tiếng vang nào. Phải mãi tới 7 năm sau (1935), với cuốn Tortilla
Flat tên tuổi ông mới được biết tới. Lấy bối cảnh là vùng Monterey,
California nơi ông sinh sống, thời gian sau Thế chiến I, mô tả đời sống của đám
dân quê / paisanos nghèo khổ, sống bầy đàn, chỉ biết hưởng thụ với rượu, ham muốn
xác thịt / lust, và trộm cắp vặt / petty theft. Họ là nạn nhân của hoàn cảnh lịch
sử. Tortilla Flat bắt đầu được giới phê bình đón nhận và cả
thành công về tài chánh.
Tiếp theo 2 năm sau, là
cuốn Của Chuột và Người (Of Mice and Men,1937), “là
một bi kịch của hai nông dân tha phương cầu thực với giấc mơ có được một mái
nhà, một mảnh vườn nhưng rồi vẫn phải sống một cuộc đời làm công lang thang khổ
cực. George Milton nhỏ con nhưng khôn lanh và gã kia là Lennie Small, tuy có
tên “Small” nhưng lại to xác rất mạnh và đần độn, tính khí dữ dằn bất thường
khiến hắn phải lệ thuộc vào George trong sinh hoạt khó khăn hàng ngày – tác phẩm
chỉ với hơn 100 trang sách mà sau này được Hội đồng giải Nobel văn chương 1962
gọi đó là một “tiểu tuyệt phẩm / a little masterpiece”.
Rồi tới Chùm
Nho Uất Hận (The Grapes of Wrath, 1939), kể chuyện về một gia đình
nông dân Joad từ vùng Oklahoma, do một thảm nạn môi sinh Dust Bowl mất
hết trang trại đất đai phải rời bỏ quê nhà di cư sang California, vùng đất của “sữa
và mật ngọt” để mưu tìm cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng rồi họ đã phải đối
đầu với vô vàn khó khăn, không có công ăn việc làm, tiền công thì quá thấp và
rơi vào cảnh nghèo khó hơn. Cuốn sách được Steinbeck viết bằng một ngôn ngữ trần
trụi / plain spoken language giàu hình ảnh, tố cáo lòng tham của đám chủ trại
giàu có, đưa tới những bất công xã hội. Thái độ phê phán đó khiến Steinbeck trở
thành khuôn mặt khó ưa ngay nơi quê nhà. Nhóm nghiên cứu Đại học Stanford, mới
đây đã đánh giá Steinbeck như một nhà văn của môi sinh.[9]
Năm 1940, Steinbeck được
giải thưởng National Book Award với cuốn Chùm Nho Uất
Hận. Tác phẩm này cũng nhận được thêm một giải Pulitzer danh
giá khác. Cuốn sách liên tục được tái bản.
Cả hai cuốn Của
Chuột và Người và Chùm Nho Uất Hận được viết
trong bối cảnh thời kỳ Suy Thoái của thập niên 1930s, là 2 tác phẩm đỉnh cao
trong văn học Mỹ được coi là tuyệt tác của John Steinbeck. Cả hai đều được chuyển
thể thành phim. Henry Fonda đóng vai Tom Joad trong Chùm Nho Uất Hận đã
được đề cử là tài tử xuất sắc nhất cho giải Academy Award.
Tuy thành công
nhưng Chùm Nho Uất Hận cũng gây ra nhiều dư luận bất lợi cho
Steinbeck, do khuynh hướng xã hội triệt để – Steinbeck bị gán cho là thiên
cộng / suspected communist leanings, do mạnh mẽ bênh vực tầng lớp lao động
cơ cực bị bóc lột bởi một giới tư bản giàu có, đầy quyền lực sở hữu phần
lớn đất đai và các trang trại, cùng liên kết với nhóm tài phiệt chủ các ngân
hàng. Chùm Nho Uất Hận xuất bản lần đầu tháng 04/1939 và trở
thành cuốn sách bán chạy nhất nước Mỹ nhưng ngay nơi quê nhà, cuốn sách bị lên
án là “tục tĩu / obscene, trình bày sai sự thực / misrepresented” với
những mô tả tiêu cực về đời sống di dân tới California.
Cuốn sách hai lần bị đốt
công khai ở Salinas. W.B. “Camp” viên chủ nhân giàu có với các trang trại trồng
bông và khoai tây, khi tới chủ toạ buổi đốt sách ở thị trấn Bakersfield đã
tuyên bố: “Chúng ta giận dữ không phải vì bị ai đó tấn công, nhưng
chúng ta đã bị tấn công bởi một cuốn sách tục tĩu theo cái ý nghĩa tệ hại nhất
của từ ngữ này – a book obscene in the extreme sense of the word.” Nhưng
lúc đó cũng có người can đảm như Gretchen Knief, trông coi thư viện Kern
County, cô không sợ bị đuổi việc vẫn lên tiếng cảnh báo: “Nếu cuốn sách
ấy bị cấm hôm nay, liệu sẽ có thêm cuốn sách nào bị cấm ngày mai?”
Chùm Nho Uất Hận bị Kern County Board cấm trong các trường học và thư viện (1939),
và chỉ được giải toả hai năm sau đó (1941).
Trong Thế chiến Thứ II,
Steinbeck có thời gian làm phóng viên chiến tranh cho tờ New York
Herald Tribune (1943), đi sát theo các đơn vị xung kích đổ bộ tấn công
quân Đức ở Ý, trên các hải đảo Địa Trung Hải. Steinbeck bị thương trở về với cả
chấn thương tâm lý; ông tự vượt qua bằng miệt mài trong viết lách.
Năm 1947, Steinbeck là một
trong số những người Mỹ hiếm hoi đầu tiên được đi thăm Liên bang Xô Viết sau
Cách mạng Nga, cùng đi với ông có phóng viên nhiếp ảnh Robert Capa. Cuốn
sách Nhật Ký Nga / A Russian Journal được xuất bản một năm sau
(1948) với phần hình ảnh của Capa. Chính quyền Cộng sản Xô Viết lúc đó đánh giá
Steinbeck như một “nhà văn Mỹ tiến bộ – American progressive writer” với
cái nghĩa tả khuynh theo chủ nghĩa xã hội.
Trong cùng năm, Steinbeck
được bầu vào Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật và Văn Học Hoa Kỳ / American
Academy of Arts and Letters.
Năm 1952, tiểu thuyết trường
thiên Phía Đông Vườn Địa Đàng / East of Eden được
xuất bản, Steinbeck coi đó là tác phẩm lớn nhất của ông (magnum opus),
sau này lên phim (1955) với James Dean, một tên tuổi điện ảnh trẻ tài năng
trong vai Cal Trask.
Năm 1961, Steinbeck cho
xuất bản Mùa Đông Bất Bình / The Winter of Our Discontent,
viết về sự suy đồi đạo lý của nước Mỹ, và không được giới phê bình đánh giá là
một thành công.
Năm 1962, trong sự ngạc
nhiên của chính Steinbeck, ông được trao giải Nobel văn chương cho toàn sự nghiệp
văn học, “do những trang sách viết trộn lẫn hiện thực và tưởng tượng, kết
hợp sự u mặc tinh tế và ý thức xã hội sắc bén – for his realistic and
imaginative writings, combining as they do sympathetic humour and keen social
perception”. Các nhân vật của ông đều là nạn nhân của lịch sử, của thời
kỳ suy thoái. Giải Nobel trao cho Steinbeck lúc đó đã bị báo chí Thuỵ Điển chỉ
trích nặng nề, ngay cả tại Mỹ. Nhưng sau này, Steinbeck được mệnh danh
là “gã khổng lồ của văn giới Mỹ – a giant of American letters”, với một
số tác phẩm được xem như văn học cổ điển Tây phương”.
Cũng thật trớ trêu, tuy
đã là khôi nguyên của giải văn chương Nobel, nhưng theo Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ
/ American Library Association, thì Steinbeck là một trong số 10 tác giả từng bị
cấm đoán và chỉ trong khoảng thời gian từ 1990 tới 2004, riêng cuốn Of
Mice and Men xếp hàng thứ 6 trong số 100 cuốn bị cấm ở Mỹ.
Năm 1964, Steinbeck được
Huân chương Tự do của Tổng Thống / Presidential Medal of Freedom, từ
TT Johnson là bạn ông và Steinbeck cũng đã từng viết diễn văn cho TT Johnson.
CỦA CHA VÀ CON STEINBECK GIỮA
CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
John Steinbeck có 2 con
trai với bà vợ thứ hai Gwyndolyn Conger. Thomas Myles Steinbeck, là con cả sinh
năm 1944 và John Ernst Steinbeck IV là con thứ sinh năm 1946. Tới giai đoạn Mỹ
tham chiến ở Việt Nam, cả hai con trai Steinbeck đều tới tuổi quân dịch và bị động
viên.
Khi John IV, đứa con thứ
2, vừa xong lớp tập huấn quân sự và sắp lên đường sang Việt Nam, Steinbeck hãnh
diện dẫn con tới thăm và bắt tay TT Lyndon B. Johnson tại Oval Office, White House.
John IV, tới Việt Nam trong vai trò phóng viên chiến tranh, làm cho đài phát
thanh và truyền hình quân đội Mỹ trấn đóng ở Pleiku. Rồi tới đứa con trai cả
Thomas Myles Steinbeck cũng nhập ngũ trấn đóng ở Fort Ord, California và có thể
cũng sẽ phải sang Việt Nam.
Khi Mỹ quyết định ồ ạt
đưa quân qua tham chiến ở Việt Nam (1965), Steinbeck tuy không còn trẻ nữa ở tuổi
64, giữa cao điểm cuộc chiến tranh đang leo thang, ông có ý định sang thăm Đông
Nam Á trong vòng 5 tháng. Steinbeck không xa lạ gì với chiến tranh, từng là
phóng viên chiến tranh trong Thế chiến II. Lần này Steinbeck đến Việt Nam, vẫn
như một phóng viên chiến tranh, cho tờ báo Newsday, Long Island, New York. John
Steinbeck đã đi khắp miền Nam Việt Nam, trong vòng 6 tuần lễ, [từ tháng 12.1966
tới đầu năm 1967].
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/1-81.png
Hình 2: trái,John
E. Steinbeck và con trai John IV 19 tuổi tới thăm và bắt tay Tổng thống Lyndon
B. Johnson tại Oval Office, White House ngày thứ Hai 16/ 05/ 1966 trước khi lên
đường sang Việt Nam. Steinbeck là bạn của Tổng thống Johnson từ 1963. Cuộc gặp
gỡ 4 phút theo yêu cầu của Steinbeck. [Nguồn: tài liệu LBJ Library and Museum];
phải: John IV ở Việt Nam 1966. Cả ba nhân vật nay đã là “người của trăm năm
cũ”.
Từ lâu, Steinbeck đã có
thái độ khinh mạn các nhóm phản chiến, xem họ như thành phần bạc nhược khi so
sánh với những người lính Mỹ đang chiến đấu ở Việt Nam. Ông không chỉ lên án họ,
Steinbeck còn có ý tưởng kỳ lạ là phải đem bọn phản chiến này thả vào đường
mòn Hồ Chí Minh để xem bọn chúng sống ra sao.
Do danh tiếng của
Steinbeck với giải Nobel và cả mối liên hệ quen biết với TT Johnson, Steinbeck
được đối xử rất đặc biệt, di chuyển với máy bay riêng thường cùng đi với cấp chỉ
huy quân sự cao cấp Mỹ, kể cả với tướng William Westmoreland, và Steinbeck cũng
thường xuyên được “briefing – tường trình” về tình hình chiến
sự với bức tranh màu hồng về tương lai thắng lợi của Mỹ ở Việt Nam.
Thường là ban ngày có mặt
nơi chiến trường, nếu không quá xa Sài Gòn và không phải ở lại qua đêm, buổi tối
Steinbeck trở về khách sạn Caravelle, dùng bữa tối trong một nhà hàng sang trọng
trên lầu 9, từ nơi đây vẫn có thể thấy ánh hoả châu và cả tiếng trọng pháo từ
xa vọng về. Những Lá Thư gửi Alicia / Letters to Alicia được
viết ở đây. [Alicia Patterson – là tên người vợ của Harry Guggenheim, đồng sáng
lập tờ Newsday, Alicia là nhà báo tên tuổi, được giải thưởng báo chí Pulitzer,
nhưng Alicia đã chết trước đó 3 năm].
Đặt chân tới Việt Nam,
ngay từ đầu, Steinbeck bị mê hoặc với những vũ khí tối tân của quân đội Mỹ, điều
mà ông chưa từng được thấy trong Thế chiến thứ II. Như khi ông chứng kiến những
chiếc máy bay DC3 “Hoả Long –Puff the Magic Dragon” trang bị
những cỗ đại liên với hoả lực khủng khiếp, chỉ trong vòng vài giây có thể nhả đạn
50-ly bao trùm khắp một sân banh rộng lớn khi lâm trận như một con rồng phun lửa.
Steinbeck rất chủ quan cho rằng, “với trang bị vũ khí tối tân như vậy
làm sao mà Mỹ có thể thua cuộc chiến tranh trước đám địch quân quê mùa ấy.”
Steinbeck cũng từng đeo
súng M-16 ra bãi tập bắn. Có điều mà Steinbeck không được cho biết là, khác với
khẩu AK của VC, súng M-16 trang bị cho lính Mỹ lúc đó thường bị hóc đạn ngoài
trận địa; scandals chết người đó đã không bao giờ được
Steinbeck ghi lại trong những lá thư viết từ Việt Nam cho tờ Newsday.
Chỉ 6 tuần lễ sống trong
vùng chiến, được bảo vệ an toàn, làm sao John Steinbeck hiểu được rằng: quân cộng
sản Bắc Việt lúc ấy cũng đã được trang bị với những vũ khí tối tân nhất của
Liên Xô và Trung Quốc, và ngay ở lãnh thổ miền Bắc lúc đó đã có hàng sư đoàn
quân chí nguyện Trung Quốc giả dạng quân Bắc Việt với những dàn hoả tiễn phòng
không tối tân sẵn sàng nghênh chiến với hàng đoàn phản lực cơ Thần Sấm từ Hạm đội
7 bay vào oanh tạc miền Bắc.[6]
Sự kiện lớn lao và quan
trọng như vậy mà trong bộ chính sử mới nhất của Hà Nội cho đến nay vẫn còn giấu
giếm, đó là trong cuộc chiến tranh để đối phó với Mỹ và miền Nam, giữa
giai đoạn 1965 và 1970, thể theo yêu cầu của Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông
đã đưa sang miền Bắc VN 320.000 Hồng quân Trung Cộng. Tới 1968, Mao đưa
thêm sang Lào 110.000 quân nữa (tổng cộng: 430.000 quân). Những sư
đoàn “chí nguyện quân” ấy đã ẩn náu ở rất nhiều nơi trong các
hang động như ở Lạng Sơn, Hà Nam, hay sống trong các khu rừng biệt lập, sinh hoạt
kín đáo và không được phép tiếp xúc với dân chúng. [6B]
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/1-82.png
Hình 3: trái, Rồng
Ẩn Trong Rừng: Quân đội Trung Quốc (hay còn gọi là Chí nguyện quân
Trung Quốc) trong chiến tranh Việt Nam. Xiaobing Li / Lý Tiểu Bình; Oxford
University Press 2020 [6A]; giữa: bản
đồ ghi những vị trí Hồng Quân Trung Quốc trấn đóng ở Bắc Việt Nam và Lào trong
chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1965-1970. [6B]
Hình phải,
bìa Lịch Sử Việt Nam Tập 13 xuất bản năm 2017 của Viện Sử Học,
Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam giai đoạn từ 1965 tới 1975, suốt 2 trang
từ 125 -126 đã hoàn toàn “giấu giếm” sự kiện lịch sử trọng đại này. Một bộ sử
Việt Nam trung thực sẽ phải là một công trình với hùng tâm của Thế hệ Việt Nam
thứ II. Tư liệu Từ Mai Trần Huy
Bích
Nhiều chi tiết về “đạo
quân ma” ấy cũng được viết ra trong cuốn “The Dragon in
the Jungle, The Chinese Army in the Vietnam War” của Lý Tiểu
Bình / Xiaobing Li do Oxford University Press xuất bản 2020. [4] Đến
nay (2021) vẫn còn tìm thấy những khu hang động trong núi rừng miền Bắc đã bỏ
hoang ấy với các khẩu hiệu chữ Hán lưu dấu trên vách đá như: Trung Việt
hữu nghị vạn tuế, Hồ chủ tịch vạn tuế, Đả đảo Mỹ đế. [8]…
087Y0056Steinbeck được
xem như phe “diều hâu / hawk” công khai ủng hộ sự tham chiến của quân đội Mỹ ở
Việt Nam mà ông coi đó một cuộc dấn thân anh hùng / heroic venture,
thái độ hiếu chiến của Steinbeck đã gây nhiều phản cảm trong công luận Mỹ và
ngay chính trong gia đình ông lúc bấy giờ. Ở Mỹ, Steinbeck lúc đó không chỉ bị
căm ghét bởi giới trí thức cánh hữu, ngay cả phe tả có người không ngần ngại gọi
ông là “phản bội / betrayal”. [2]
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/1-83.png
Hình 4: trái, “Diều hâu Steinbeck” với súng nón sắt và áo
giáp trong hầm cá nhân / foxhole trên một trận địa miền Nam Việt Nam. Qua những
bức thư viết từ tiền tuyến trên tờ Newsday, Steinbeck công khai ủng hộ sự tham
chiến của quân đội Mỹ ở Việt Nam. [nguồn: Associated Press]; phải, John IV con
trai Steinbeck (dưới cùng trong hình), ngược với cha, là tiếng nói phản chiến mạnh
mẽ, John IV sau này trở thành đệ tử của Ông Đạo Dừa nơi Cồn Phụng trên sông
Mekong, Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nguồn: Gale Literature Resource Center
John Ernst Steinbeck IV
[06/12/1946 – 02/07/1991], hết thời gian quân dịch, được giải ngũ ngày 07/12/1967.
Chỉ một thời gian ngắn về Mỹ, năm 1968 John IV trở lại Việt Nam như một nhà báo
với khuynh hướng phản chiến – hoàn toàn đối nghịch với quan điểm của cha mình.
John IV đã hợp tác với Sean Flynn [con của tài tử Errol Flynn] cùng làm tại Dispatch
News Service, cung cấp cho truyền thông Mỹ những thông tin một chiều hết
sức bất lợi cho Washington như vụ Thảm sát Mỹ Lai, câu chuyện Chuồng Cọp của trại
giam Côn Sơn…
Trong khi John Steinbeck
Cha vẫn còn sống, ngày 05/03/1968, sau Tết Mậu Thân, John IV đã ra điều trần
trước một Uỷ ban Thượng viện Mỹ, nói ra những điều mà không một chính giới Hoa
Kỳ nào muốn nghe, rằng: có tới 60% lính Mỹ tuổi từ 19 tới 27 nghiện cần sa /
Marijuana, và chính cơ quan MACV cũng khuyến khích tình trạng nghiện ngập này bằng
cách cung cấp thuốc gây nghiện như Amphetamines / hay còn được gọi là pep pills
cho lính Mỹ. Như một scandal trên báo chí lúc bấy giờ, và đã có một đụng độ
công khai giữa Pentagon và John IV.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/0-123.jpg
Hình 5: Chính con trai Steinbeck, từng phục vụ tại Việt Nam
cũng chống lại cha, John IV ra điều trần trước một tiểu ban Thượng viện cho rằng
“cuộc chiến Việt Nam là một sai lầm, lính Mỹ thì nghiện ngập, báo cáo số thương
vong thì sai sự thật, đó là một tình trạng hỗn mang / a mess, và chúng ta cần
thoát ra.” Importance of being Stoned in Vietnam, Steinbeck’s Son, Pentagon
Clash Over Soldiers’ Pot Use. Trang A4 báo Independent AM Press-Telegram PM
[Long Beach, California Thursday 28.12.1967]. [2]
Sự phân hoá “Của Cha và Con – Of Father and Son” trong
gia đình Steinbeck, cũng là hình ảnh bi kịch phân hoá của nước Mỹ trong suốt cuộc
chiến tranh Việt Nam.
“Steinbeck in Vietnam: Dispatches from the War” [1] (University of
Virginia Press, 2012), có thể xem là những trang sách cuối đời gây chấn động của
Steinbeck khi ông đã bước vào tuổi 64.
John Steinbeck được chẩn
đoán có bệnh nghẽn mạch tim nhưng từ chối một cuộc mổ tim [heart bypass surgery].
Ông mất tại New York ngày 20/12/1968, giữa một trận đại dịch cúm (1968 flu
pandemic) nhưng do suy tim, và ông cũng là người nghiện thuốc lá trong nhiều
năm.
STEINBECK VÀ MỘT
THOÁNG VIỆT NAM
An Khê, Việt Nam 22/12/1966
An Khê là thị xã của tỉnh
Gia Lai trên Cao nguyên Trung phần Việt Nam, nằm bên Quốc lộ 19 giữa Pleiku và
Qui Nhơn. An Khê có giá trị chiến lược quan trọng trong cuộc chiến tranh Việt
Nam. Từ tháng 8/1965 Mỹ đã xây dựng trại Radcliff, là căn cứ chính của Sư đoàn
Kỵ Binh Số 1 / US 1st Cavalry Division. Radcliff chỉ được trao lại cho Việt Nam
vào cuối năm 1970 khi có chính sách Việt Nam hoá cuộc chiến tranh, chuẩn bị cho
Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Trước Giáng Sinh 2 ngày
[22/12/1966], Steinbeck đã tới thăm căn cứ An Khê. Với hào quang của giải Nobel
văn học, Steinbeck trông phong trần ở tuổi 64, trong bộ áo lính GI’s, buổi tối
ngồi trên một chiếc thùng gỗ vây quanh là đám lính trẻ quân dịch / enlisted
men, lứa tuổi con ông, nao nức tới gặp và nghe ông nói. Bằng ngôn ngữ bộc bạch,
Steinbeck tâm sự: “Sáu tháng trước, tôi rất buồn vì 2 đứa con trai tôi
bị động viên. Nhưng rồi 6 tháng sau, bởi Chúa / by God! Tôi hãnh diện vì chúng
đã nên người. Đàn ông trai tráng thực sự là những giá trị hôm nay / valuable
things today.” Con trai ông John IV thì đang đóng ở Pleiku; một đứa
khác cũng trong quân ngũ đóng ở Fort Ord, Monterey California.
Có lần được phóng viên một
tờ báo hỏi: Có phải Mỹ đang bị kẹt / locked in trong một cuộc
chiến vô vọng không? Steinbeck nói: “Đó là một câu hỏi hài hước nhất,” ông
tiếp: “Mọi cuộc chiến tranh đều vô vọng nhưng là cần thiết, và cuộc
chiến tranh này cũng là cần thiết.”
Steinbeck cho biết ông tới
đây để viết về cuộc chiến tranh, chủ yếu là những cảm tưởng của ông về cuộc chiến
này.
Trong cuộc gặp gỡ, John
Steinbeck trả lời mọi câu hỏi của đám GI’s về cuộc đời trải qua của ông nếu như
không quá riêng tư. Rằng ông cũng đã từng làm phu bến tàu / longshoreman, sống
với nông dân, lao động làm thuê hái bông / picked cotton. Có cả những chi tiết
thú vị như toàn bộ tác phẩm của ông đều được viết tay / written in longhand chứ
ông không đánh máy.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/0-124.jpg
Hình 6: John Steinbeck vẻ già nua mỏi mệt ngồi trong doanh
trại Radcliff, An Khê nói chuyện với đám binh lính quân dịch Mỹ lứa tuổi con
trai ông, vào buổi tối 2 ngày trước Giáng Sinh, 22/12/1966. [nguồn: Ray Belford
/ Stars and Stripes]
“Có những câu hỏi của các bạn mà tôi chưa từng trả lời
cho ai, nhưng tôi ngưỡng mộ những gì các bạn đang làm ở đây và đáng cho tôi
kính trọng”. Ngồi nói chuyện suốt
hai tiếng đồng hồ, với 2 ly cà phê, cũng đã thấm mệt, Steinbeck phải xin lỗi
đám lính trẻ đang say sưa nghe ông nói, để đi ngủ. Cảm tưởng của một tân binh
có mặt trong suốt buổi nói chuyện của Steinbeck, có thể tóm gọn trong một
câu: “He just seems to radiate greatness / Ông ấy thực lớn lao toả
sáng.” [3]
Pleiku, Việt Nam 07/01/1967
Ngày 7/01/1967, trong
chuyến thăm Pleiku, John Steinbeck từ trên một chiếc trực thăng UH-1B
Huey quan sát cuộc chiến Việt Nam. Ông đã không tiếc lời ca ngợi toán phi công
trực thăng: “Họ lái những con tàu giống như các kỵ sĩ điều khiển con ngựa
đua của họ. Họ uốn lượn dọc theo những con suối, bay bổng trên đỉnh cây như những
cánh chim én, quay vòng và nhào xuống nhanh như cắt trong buổi chiều. Tôi quan
sát đôi bàn tay họ nơi phòng lái, rất nhịp nhàng và phối hợp như đôi bàn tay của
nhạc sĩ Pablo Casals trên chiếc đàn trung hồ cầm / cello. Chắc bạn còn nhớ giấc
mơ hồi trẻ nhỏ là được tự do bay bổng và cảm giác tuyệt vời như thế nào. Cảnh
tượng bây giờ giống như vậy, nhưng đôi bàn tay tôi thì đã già và lú lẫn để theo
lệnh, bảo phải bay vút lên / updrafts và cắt ngang / side winds, né tránh hoả lực
từ dưới đất / ground fire báo hiệu bằng một nháng lửa / tiny puff or flash, hay
một va chạm / a hit và tất cả phải tức thời và tự động. Và tôi chỉ biết ngưỡng
mộ và có niềm vui được ngắm nhìn họ.” [1]
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/0-125.jpg
Hình 7: Ngày 7/01/1967, nhà văn John Steinbeck trên chuyến
bay quan sát cuộc chiến Việt Nam từ một chiếc trực thăng UH-1B “Huey”, thuộc
Trung Đoàn Không Kỵ 10 đồn trú tại Pleiku, bên cạnh ông là viên xạ thủ khẩu đại
liên M60 7.62 mm. Mấy ngày sau sau Tết Mậu Thân, Thomas Myles Steinbeck con
trai cả của Steinbeck cũng bị đưa sang Việt Nam và từng là một xạ thủ đại liên
trực thăng. Nguồn: AP
STEINBECK VÀ 2 CUỘC GẶP GỠ
CHƯA GHI LẠI
Cần Thơ, Việt Nam, Ngày…
Tháng 12 Năm 1966
BS Hoàng Ngọc Khôi, YKSG 1960:
“Khi John
Steinbeck được giải Nobel văn chương 1962, tôi – Hoàng Ngọc Khôi và anh DS
Nguyễn Phúc Bửu Tập đang làm tại Trường Quân Y và cùng phụ trách tờ Tập
San Quân Y (TSQY). Anh Bửu Tập mua được cuốn Of Mice and Men (OMAM),
đọc xong đưa cho tôi đọc. Khi trả lại, Bửu Tập bảo: Hay là chúng mình
dịch rồi đăng vào Tập San. Chúng tôi bắt đầu dịch và cho đăng vào
TSQY khoảng giữa năm 1963, dựa theo cuốn tiếng Anh OMAM nhưng vẫn
có thêm cuốn tiếng Pháp Des souris et des hommes để tham
khảo. Nhà văn Trần Phong Giao, lúc đó là Thư ký Tạp chí Văn, tình
cờ đọc được vội tìm hai chúng tôi đặt cọc là khi viết xong giao
cho Tạp chí Văn xuất bản. Tôi không biết Nxb Văn có liên lạc với John
Steinbeck hay không, nhưng hình như hồi đó chưa có thoả hiệp về
tác quyền giữa hai nước.
Khi Steinbeck sang Việt Nam thì tôi đang làm Y sĩ
trưởng Quân y viện Trương Bá Hân tại Sóc Trăng. Lúc đó, có một Đại úy cố vấn Mỹ thuộc Cục
IV Tiếp Vận phụ trách tiếp vận cho Quân y viện TBH cứ khoảng
hai tháng lại tới kiểm tra xem QYV có nhu cầu gì không
và không hiểu sao ông ta lại biết tôi có dịch cuốn
OMAM.
Bỗng một hôm, cuối năm 66 hay đầu năm 67 gì
đó, cũng viên Đại uý cố vấn ấy (mà nay tôi quên mất tên) bay trực
thăng ghé thăm QYV bảo tôi là John Steinbeck đang ở Cần Thơ và có hẹn
gặp ông ta ngày mai đi uống cà phê trưa từ 2 tới 3 giờ chiều
và hỏi tôi có muốn gặp Steinbeck không? Ông bảo tôi có thể
lên ngay trực thăng đi cùng nhưng khi về phải tự lo. Tôi mừng
quá nhưng trả lời sáng mai tôi sẽ lấy xe Jeep đi và về cho tiện
vì từ Sóc Trăng sang Cần Thơ chỉ khoảng hơn một giờ lái xe.
Hôm sau đúng giờ, viên đại uý Mỹ đã đợi
tôi tại QYV Phan Thanh
Giản, Cần Thơ và rồi ông chở tôi tới một câu lạc bộ sĩ
quan Mỹ. Tới nơi thì Steinbeck cũng vừa tới, ông ta mặc đồ
như một quân nhân tác chiến, có khoác cả áo giáp, có bộ râu lẫn ria cắt
tỉa gọn ghẽ. Khi gặp Steinbeck tôi còn là Y sĩ Đại uý, ông ta gọi
tôi là Doctor và hỏi tôi có sang Mỹ bao giờ chưa và sao lại chọn dịch
cuốn sách OMAM của ông? Tôi nói tôi đã sang Mỹ hai lần rồi và lần
nào tôi cũng muốn mau trở về vì nhớ quê nhà và bằng hữu. Ông cười
bảo vậy đúng là điều ông muốn nói trong cuốn truyện rồi, ước
vọng sao có một mảnh đất, một khu vườn và ngày ngày gặp
bạn bè tán gẫu với nhau. Tôi mang theo hai cuốn truyện dịch, một cuốn
OMAM và một cuốn Des souris et des hommes để ông ký cho tôi và Bửu Tập,
còn tôi cũng tặng ông một cuốn truyện dịch Của Chuột và Người. Tôi
chỉ được viên Đại uý cố vấn nhường cho nửa giờ nên tôi chỉ hỏi ông một câu duy
nhất là ông có dự tính gặp một nhà văn Việt Nam nào không? Ông trả lời chuyến
đi này của ông không có liên quan gì tới văn chương cả, mà là quan sát tại chỗ
về tình hình miền Nam xem có cơ thắng trận hay không. Hôm đó viên Đại uý cố vấn
có chụp cho tôi với John Steinbeck một tấm hình polaroid lấy liền. Nửa
giờ quá ngắn ngủi và Steinbeck chỉ ở VN có sáu tuần mà phải đi khắp
4 vùng chiến thuật và viết bài hàng ngày cho tờ báo Newsday mà ông
là đặc phái viên. Steinbeck ủng hộ Mỹ đem quân tới VN để
chống sự bành trướng của CS và rất ghét nhóm phản chiến. Ngược lại
con ông, đang phục vụ tại VN trong đoàn Truyền thông quân sự Hoa Kỳ thì
lại chống chiến tranh VN. Những bài báo của ông viết từ VN
sau được in lại thành một cuốn sách: John Steinbeck in Vietnam:
Dispatches from the war. Và anh cũng đã biết rồi.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/1-84.png
Hình 8: trái, Of Mice and Men, của John Steinbeck bản tiếng
Anh; giữa: Des souris et des hommes bản tiếng Pháp; phải: Của Chuột và Người, bản
dịch của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập, Nxb Văn Sài Gòn 1967. Từ sau
1975, bản tiếng Việt này đã được tái bản nhiều lần ở Việt Nam.
Đêm 29/04/1975 do tôi di tản nhờ tàu Hải quân rất bất
ngờ nên đã không mang theo được gì. Sau 1975 có người nhà bên Việt Nam
gửi cho tôi cuốn Của Chuột và Người do Hội Nhà Văn in lại
và đây là lần xuất bản thứ hai, đề năm 1997. Cuối sách có lời
viết như sau: “Chúng tôi đã nhiều lần liên lạc với các ông
Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập. Rất tiếc cho đến nay chúng
tôi vẫn không nhận được tin tức cụ thể từ hai dịch giả”. Sau đó bên nhà lại gửi cho
cuốn Của Chuột và Người nhưng lần này do nhà Xuất bản
Văn Học ấn hành năm 2001. Và tôi nghe nói cuốn truyện được tái bản
nhiều lần vì được dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường Đại
học về môn Anh ngữ. Người bạn cùng dịch sách OMAM với tôi, DS Nguyễn Phúc Bửu
Tập, thì nay cũng đã mất [1930-2020]. BS Hoàng Ngọc Khôi,
Toronto, Email ngày 21.03.2021
Tây Ninh, Việt Nam, Ngày…
Tháng 01 Năm 1967
BS Trần Văn Khánh, YKSG 1965
BS Khánh nguyên cựu nội
trú các bệnh viện, anh là bạn đồng khoá YKSG 1965 và rất thân với Nghiêm Sỹ Tuấn,
trong Ban Quan Điểm báo SVYK Tình Thương. Ra trường bị động viên với cấp bậc Y
sĩ Trung uý, là bác sĩ chuyên khoa giải phẫu thần kinh / neurosurgeon hiếm hoi,
anh được bổ nhiệm về làm trưởng khoa Giải Phẫu QYV Tây Ninh. Anh Khánh kể: Giai
đoạn ấy, do đụng độ hai bên thương vong nhiều, ngày đêm tôi làm việc
trong Quân y viện và cả sang giúp bên Dân y viện! Tôi mổ đủ thứ; có
thể tưởng tượng là tôi đã làm cả giải phẫu thần
kinh Stellectomie, với những dụng cụ dã chiến!
“Tôi có diễm phúc gặp văn hào John Steinbeck tại Tây Ninh năm 1967, không nhớ
rõ ngày tháng trong một dịp bất ngờ khó tin! Như một “duyên
khởi” vào một buổi sáng sau vòng thăm các bệnh nhân sau mổ, rất tình cờ tôi gặp
nhóm người Mỹ trên một xe Jeep chạy vào Quân y viện, hai người đàn ông và một
phụ nữ. Họ cần có nước rửa tay và khu vệ sinh. Trong đám người ấy, tôi nhận ra
ngay nhà văn Steinbeck qua chùm râu và ria mép trên khuôn mặt nông dân của ông ấy.
Steinbeck trông phong trần trong bộ quân phục GI’s với cả áo giáp và nón sắt.
Qua vài câu trao đổi,
Steinbeck quá đỗi ngạc nhiên khi có một người bản xứ xa lạ nói tiếng Anh lưu
loát và nhận ra mình; hơn thế nữa anh ta còn là độc giả từ bao năm của ông.
Khánh nhắc tới cuốn sách The Grapes of Wrath, nhắc tới cảnh
tượng một người mẹ vừa sẩy thai đã cố gắng cứu sống một người đàn ông sắp chết
đói và cho ông ta bú bầu sữa từ chính nơi ngực mình. Khánh nói với Steinbeck,
trang sách cuối ấy không chỉ vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng và cả tuyệt đẹp, đã đọc rồi
không sao có thể quên.
Chỉ bấy nhiêu thôi,
Steinbeck đã hoàn toàn bị chinh phục. Steinbeck thân thiết mời Khánh – mà ông gọi
là “young man” lên chuyến xe Jeep cùng ông trong chuyến thăm
đi một trại Lực Lượng Đặc Biệt không xa chân núi Bà Đen mà lính Mỹ gọi đó
là Black Virgin Mountain, cũng là nơi mà Steinbeck tưởng như đó là
điểm cuối của con đường mòn Hồ Chí Minh.
Ấn tượng sâu đậm nhất nơi
Khánh: Steinbeck nói nhiều như là một war advocate / bênh vực
chiến tranh, ông tin rằng với vũ khí tối tân như hiện nay Mỹ sẽ thắng đám lính
VC hỗn tạp và cả quê mùa. Trong khi đó thì cô Mỹ tóc bạch kim ngồi phía sau –
không biết có phải là vợ mới cưới của ông hay không, đi theo làm stenodactylo
/ tốc ký ghi xuống những điều Steinbeck đang nói.
Không phải là không nhớ,
nhưng Khánh không muốn nói nhiều về chuyến field trip ngày hôm
ấy với Steinbeck, Khánh coi đó như một chút riêng tư mà Khánh muốn giữ cho
riêng Anh. Khánh viết: “Tôi xin được phép không làm nhân chứng lịch sử
của một giai đoạn chiến tranh tương tàn mà rốt cuộc miền Nam bị miền Bắc cưỡng
chiếm”. Sau này sang Mỹ, Khánh đã có dịp tới thăm The National
Steinbeck Center ở Salinas, tới thành phố Carmen, cả ôm pho tượng
Steinbeck. Trần Văn Khánh, Oklahoma, Email: ngày 7 tháng 3, 2021
MỘT CUỐN SÁCH GÂY
TRANH CÃI
“Những bức thư gửi Alicia” trên tờ Newsday được tập hợp trong một
cuốn sách có tên là Steinbeck in Vietnam: Dispatches from the
War, nhưng rồi đã không được in ra vào thập niên 1960s, do những e
ngại danh tiếng của Steinbeck bị thêm tổn thương và mãi tới 44 năm sau khi
Steinbeck mất (1968), cuốn sách mới được University of Virginia Press xuất bản
(2012), với Thomas Barden giáo sư Đại học Toledo, Ohio từng là cựu chiến binh ở
Việt Nam và là một học giả chuyên về Steinbeck viết lời Dẫn Nhập và Kết
Từ cho tác phẩm cuối đời của Steinbeck.
Theo Barden, chính TT
Johnson cũng muốn Steinbeck tới Việt Nam tường trình tại chỗ những gì đang diễn
ra lúc đó. Steinbeck muốn có một chuyến đi độc lập, nhưng qua nội dung các bức
thư viết từ chiến trường, rõ ràng Steinbeck có quan điểm ủng hộ cuộc chiến
tranh, phản ánh chính sách của TT Johnson lúc đó với chủ thuyết Domino,
và tính tất thắng / winnability của Mỹ trong cuộc chiến này. Giữa Cha
và Con Steinbeck đã có đụng độ với cách nhìn khác nhau về cuộc chiến tranh Việt
Nam. John IV con trai Steinbeck cho rằng đây là một cuộc chiến sai lầm, “đa
số lính Mỹ thì nghiện ngập, con số thương vong thì không chính xác, và rằng
chúng ta – người Mỹ phải rút chân ra khỏi cuộc chiến tranh này.”
Sau thời gian ở Việt Nam
trở về Mỹ và trong những trao đổi riêng tư, Steinbeck đã tỏ ra bất bình về những
tin tức sai lạc về cuộc chiến tranh hàng ngày cung cấp cho dân chúng Mỹ. Chính
Elaine vợ ông cũng khuyên Steinbeck cần thay đổi cách nhìn về cuộc Chiến tranh
Việt Nam, nhưng Steinbeck đã không còn sống lâu hơn để viết thêm gì khác về cuộc
chiến tranh ấy.
Đồng ý với John Steinbeck
hay không, thì sự nghiệp của ông đã hoàn tất. Tất cả những trang viết của ông
trước sau, thì nay vẫn hiện diện trên các kệ sách trong các thư viện và trường
học. Sẽ vẫn là một bài học cho các thế hệ tương lai.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/1-85.png
Hình 9: Hình bìa cuốn sách“Steinbeck in Vietnam: Dispatches
from the War” đã không ra mắt vào thập niên 1960s, mà mãi tới 44 năm sau khi
Steinbeck mất. University of Virginia Press (2012)
IN RETROSPECT –
NHÌN LẠI
Năm 1972, thời
gian tôi đi tu nghiệp ở San Francisco về chuyên ngành Y Khoa Phục Hồi, John
Steinbeck đã mất trước đó 4 năm (1968). Tiếp sau Lyndon B. Johnson, Richard
Nixon là Tổng thống Mỹ, đang theo đuổi chính sách Việt Nam hoá cuộc chiến tranh
– mà báo chí Mỹ gọi đó là kế hoạch đổi màu da trên xác chết, chuẩn
bị cho Mỹ hoàn toàn rút chân ra khỏi Nam Việt Nam.
Và cũng chưa bao giờ
phong trào phản chiến với teach-in, sit-in lên cao và lan rộng
ra khắp các đại học trên toàn nước Mỹ như vậy. Nơi sân trường Đại học Berkeley,
đám sinh viên “con ông cháu cha” từ miền Nam Việt Nam sang du học Mỹ cũng hoà
nhập vào đám phản chiến ấy, chúng mặc bộ áo bà ba đen tổ chức các nhạc hội
hát “Quảng Bình Quê Ta ơi” quyên tiền ủng hộ Hà Nội và Mặt trận
Giải Phóng. Và ở đâu đó, hai con trai của John Steinbeck cũng đang hoà nhập vào
dòng người đó.
Cũng trong năm 1972 và cả
sau này, tôi đã hơn một lần tới thăm Monterey, Salinas quê hương của Steinbeck.
Steinbeck mất ở New York, tro cốt của ông được đưa về California và chôn cất lặng
lẽ trong khu nghĩa trang của gia đình. Ba mươi năm sau khi ông mất, một National
Steinbeck Center được khai trương (27/06/1998) nơi thị trấn
Salinas, nơi quê hương ông sinh ra.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/1-86.png
Hình 10: trên, Trung tâm Quốc gia Steinbeck, [địa chỉ 1 Main
Street, Salinas, CA 93901] nơi thị trấn Salinas quê hương của Steinbeck. Trung
Tâm Steinbeck được xây dựng và khai trương (1998) 30 năm sau khi ông mất
(1968); dưới, câu trích dẫn của John Steinbeck được phóng lớn và trưng nơi sảnh
đường của National Steinbeck Center Salinas, California.
Trong một lần đã tới
thăm, điều vẫn còn lưu lại trong trí nhớ là câu trích dẫn của John Steinbeck được
phóng lớn và trưng bày nơi sảnh đường của National Steinbeck Center
Salinas, California.
“Nhà văn phải tin tưởng rằng điều hắn đang làm là
quan trọng nhất trên thế giới. Và hắn phải giữ ảo tưởng ấy cho dù khi biết được
điều đó là không thực.”
Dĩ nhiên đây không phải
là câu văn hay nhất của Steinbeck nhưng có lẽ phản ánh đúng nhất về cuộc đời 66
năm đầy thăng trầm và cả nghịch lý của Steinbeck mà ông đã bướng bỉnh lựa chọn
để đi tới vinh quang và cả đôi khi chống lại chính mình.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/03/0-126.jpg
Hình 11: trái, Bức tượng đồng John Steinbeck, nơi thành phố
Monterey, California, quê hương ông.
NGÔ THẾ VINH
California 28/03/2021
***
Tham khảo:
1/ Steinbeck in Vietnam: Dispatches from the War, March
29, 2012 by John
Steinbeck (Author), Thomas
E. Barden (Editor)
2/ Steinbeck In Vietnam: A Great Writer’s Last
Reports, April 21, 2012, 6:25 AM https://www.npr.org/2012/04/21/150012711/steinbeck-in-vietnam-a-great-writers-last-reports
3/ War hopeless but necessary, Steinbeck says. Ray Belford, The
Stars and Stripes Archives, December 22, 1966
https://www.stripes.com/news/war-hopeless-but-necessary-steinbeck-says-1.84079
4/ John Steinbeck, despised and dismissed by
the right and the left, was a real American radical. America’s Best Hated
Author by Eric
Johnson. Aug 5, 2004
5/ John Steinbeck IV and the Coconut Monk. Alison
Teal, Contributor 04/09/2014, HuffPost
https://www.huffpost.com/entry/john-steinbeck-and-the-co_b_5089375
6/ (A) The Dragon in the Jungle: The Chinese Army in
the Vietnam War. Xiaobing Li. Oxford University Press, Jan 30, 2020. (B) A
History of the Modern Chinese Army. Xiaobing Li. The University Press of
Kentucky, 2007
7/ Của Chuột và Người. John Steinbeck. Bản dịch
của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập. Nxb Văn, Sài Gòn,1967
8/ Khám Phá Việt Nam
Hầm bí mật dưới lòng đất của Lạng Sơn có nhiều ghi
chú bằng cả chữ Hán và https://youtu.be/mpuudi8AMIU
9/ Great Writers of the West: Steinbeck and the
Environment. The Bill Lane Center for the American West. Stanford University
Wednesday, May 10, 2017 https://west.stanford.edu/events/great-writers-west-steinbeck-and-environment
No comments:
Post a Comment