BS
Hoàng Thị Mỹ Lâm, CHLB Đức
12/07/2018
Trong
tất cả mọi ngành nghề và nhất là nghề khoa học như y khoa người ta luôn luôn cần
sự phát triển , những gì hay nhất ngày hôm nay trong tương lai tuy vẫn đúng
nhưng đó chưa chắc là là điều hay nhất nữa . Xưa kia người ta quan
niệm một ông lang già mới giỏi và có đủ kinh nghiệm chữa trị bệnh nhân hữu hiệu
, nhưng ngày nay tuy kinh nghiệm vẫn là yếu tố quan trọng nhưng những sự khám
phá , đột phá trong việc khám bệnh và chữa trị mới chính là những điều
rất cần thiết cho sự tiến triển của nền y khoa hiện đại .
Nói
ví von để chúng ta đi vào tiêu đề mà BS Trần Văn Tích đã nêu lên nhiều lần và lần
mới nhất vào ngày 11.7.2018 về vấn đề „ Đi Hay Ở „ của các nhà đối kháng trong
nước Việt Nam .
Với
sự phát triển của hệ thống Internet , điều mà khi bức tường Bá Linh sụp đổ vào
năm 1989 vẫn còn xa lạ đối với quần chúng , người dân Việt
Nam trong nước ngày nay càng ngày càng hiểu biết hơn về các quyền lợi
cơ bản của nhân quyền quốc tế và số người trẻ tự nguyện tham gia vào phong trào
đối kháng càng nhiều . Bên cạnh các nhà đối kháng nổi tiếng vẫn còn
những anh chị em âm thầm làm việc . Họ không cần tên tuổi , không cần vinh
danh.
Trong
trường hợp trục xuất Giáo Sư Phạm Minh Hoàng nhà cầm quyền CSVN đã phải tước quốc
tịch và cho cả trăm công an cảnh sát chìm nổi bao vây để kéo ông ra
khỏi nhà và ép lên máy bay sang Pháp ngày hôm sau . Giáo Sư Phạm Minh Hoàng là
người đã đi tù biệt giam , đã bị trù dập trong môi trường làm việc
nhưng vẫn muốn tiếp tục giữ ngọn lửa tự do nhân quyền cho giới trẻ .
Ông là người đã nói „ không rời khỏi nước „ và con người nhỏ thó hiền
lành đó đã phải ra đi dưới bạo lực .
Trong
trường hợp Đặng Xuân Diệu , Nguyễn Văn Đài , Lê Thu Hà bị trục xuất thì đó là
những nhà đối kháng đang chịu những bản án tù lâu năm . Họ là những người một là
chịu nằm mọt gông cho đến khi mãn hạn tù , hai là ra đi để còn có thể tiếp tục
hoàn thành những gì còn dang dở .
Riêng
với quan điểm của người hải ngoại thì ý kiến của BS Trần
Văn Tích không sai . Các nhà đối kháng trong nước khi ra hải ngoại thường gặp
khó khăn về ngôn ngữ , về môi trường sống xa lạ , về phương cách đấu tranh phức
tạp …cuộc đấu tranh của họ sẽ khó khăn hơn và có nhiều rào cản hơn .
Tuy
nhiên đó không phải là lý do chúng ta „ trùm mền hô xung phong „ như
BS Tôn Thất Sơn đã ghi nhận và chúng ta cũng đừng quên những công trình vận động với
các chính giới ở hải ngoại về việc đòi hỏi CSVN phải trả tự do cho các tù nhân
lương tâm . Việc các tù nhân lương tâm này đạt được tự do , dù họ phải chấp nhận
cái giá phải „ đi „ , thì đó cũng là một thành quả NHÂN ĐẠO của chúng ta.
Cái
thành quả thứ hai là CHỐNG LẠI SỢ HÃI . Vâng , chính vậy . Mục Sư Stief tại
Leipzig là một nhân chứng trong thời kỳ vận động dân chủ trước khi bức tường Bá
Linh sụp đổ đã bảo với chúng tôi là khi các anh em vừa rời buổi họp ra khỏi nhà
thờ bị theo dõi và bắt cóc lên xe công an thì họ đã cố gắng quăng lại
trên đường một mẩu giấy viết tên mình và ngày giờ bị bắt với hy vọng sẽ có người
tìm thấy để báo về nhà thờ . Sự sợ hãi bị bắt và bị thủ tiêu bí mật đã
là một riềng mối làm nhiều người không dám tham gia hoạt động đối kháng dưới chế
độ Cộng Sản , cho dù là ở Đức , ở Tàu , ở Triều Tiên hay ờ Việt Nam
. Nhờ hệ thống Internet hiện đại thời nay thì ở Việt Nam chuyện bắt người âm thầm
không thể xảy ra nữa . Danh sách tù nhân lương tâm luôn được cập nhật công bố
hàng ngày , sự vận động quốc tế cho họ được công khai hóa
và thỉnh thoảng lại có người „được „ trục xuất từ nhà tù để chứng tỏ sự hiệu
nghiệm của sự can thiệp quốc tế . Người đối kháng trong nước nhờ đó mà an tâm
hoạt động và đi tù . Cùng lắm thì phải „rời „ Việt Nam thôi .
Cái
thành quả thứ ba là sự LIÊN KẾT QUỐC NỘI HẢI NGOẠI càng ngày càng mạnh
. Chính Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã xác nhận là người dân trong nước
thời này „ dễ thở „ hơn thời sau 1975 là do các áp lực quốc tế lên nhà cầm quyền
CSVN . Sự đoàn kết quốc nội hải ngoại là điều mà CSVN rất sợ và luôn luôn lên
án nặng nề. Tiếng nói trên hệ thống truyền thông quốc tế và trong cộng
đồng của những nhà đối kháng phải ra hải ngoại cũng thường „ nặng ký“ hơn . Có
nhiều anh em trẻ thức thời vùng Đông Đức hiện tại vẫn còn giữ quốc tịch Việt
Nam, mặc dù họ có đủ điều kiện nhập tịch sở tại , với lý
do nhân danh người Việt Nam ở hải ngoại để nói lên lời nói thiết thực cho
tổ quốc và dân tộc Việt Nam . Ngoài ra sự liên minh sức mạnh trong và ngoài nước
để hỗ trợ các anh chị em còn trong nước sẽ làm cuộc đấu tranh công hiệu hơn khi
chúng ta có thêm những bàn tay đóng góp từ trong nước ra , họ vừa
thoát khỏi tấm chăn nên biết rõ „rận“ hơn người Việt đã hàng chục năm không về
Việt Nam.
Nói
chung , cuộc đấu tranh chống Cộng là một diễn tiến trường kỳ và mỗi cuộc đấu
tranh tùy thời điểm , tùy điều kiện và tùy tình thế sẽ khác nhau .
Chúng ta không thể qua kinh nghiệm xưa cũ mà đi đóng khung cứng ngắc cho một cuộc
đấu tranh . Các nhà đối kháng hoàn toàn có quyền tự do quyết định „ ĐI HAY Ở“ tùy
theo hoàn cảnh cá nhân của họ .
Ngoài
ra hãy đừng quên là chúng ta không những đang đòi hỏi nhà cầm quyền
CSVN phải chấp nhận đa nguyên và thay đổi thể chế mà chính chúng ta
cũng phải tập thói quen suy nghĩ đa chiều và đổi mới tư tưởng . Có
như vậy thì chúng ta mới có những bước khám phá và đột phá cho con bệnh Việt
Nam hầu có thể thúc đẩy một cách hiệu quả nhất cho tiến trình đấu tranh chống
chế độ Cộng Sản độc tài độc tôn , để đạt được một nền tự
do dân chủ và nhân bản thực sự cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam .
BS
Hoàng Thị Mỹ Lâm
Berlin
, ngày 12.07.2018
——————————————
Đi
hay ở
Đầu
đề bài viết này do Bà Sybille Ploog đặt. Bà Ploog là người phụ trách tờ Der
Stacheldraht (Giây kẽm gai), cơ quan ngôn luận chính thức
của tổ chức chống cộng Union der Opferverbände Kommunistischer Gewaltherrschaft
e.V., UOKG (Liên hiệp các Hội đoàn Nạn nhân của Chuyên chế Cộng sản). Nhân vụ
Luật sư Nguyễn Văn Đài được giải thưởng của Hiệp hội Thẩm phán Đức rồi kế đó,
Luật sư bị Việt cộng tống xuất sang Đức cùng người phối ngẫu và một nữ nhân
viên phụ tá, tôi cám cảnh nên viết thành bài văn chính luận tiếng Đức lấy nhan
đề : “Asyl für abgeschobene vietnamesische Dissidenten, eine zerstörerische
Politik des Westen“, xin dịch thoát sang Việt ngữ là “Cấp qui chế tỵ nạn
cho những nhân vật đối kháng người Việt, một chính sách hủy diệt của phương
Tây“.
Nội
dung bài viết trình bày ngắn gọn các hoạt động chống cộng hữu hiệu của Luật sư
Nguyễn Văn Đài khiến Việt cộng căm ghét và khiến công luận Đức lưu tâm nên đưa
đến kết quả là Luật sư được cấp giải của Hiệp hội Thẩm phán Đức. Trong một bài
viết trước đây, tôi đã nhắc đến những người ở lại như Bác sĩ Nguyễn Đan Quế,
Linh mục Phan Văn Lợi và Luật sư Nguyễn Văn Đài.
Tôi
ghi tên Luật sư vì được đọc đâu đó trên internet lời tuyên bố sẽ không ra nước
ngoài của Luật sư. Nay tình hình thay đổi, Luật sư cùng gia đình và phụ tá sang
Đức. Từ Luật sư Đài, tôi chuyển qua hoàn cảnh của những nhân vật tự xem
hay được xem là đối kháng đã lìa bỏ môi trường tranh đấu chính trị quen thuộc
là quốc nội để lưu vong ra quốc ngoại. Tôi ngậm ngùi nêu nhận thức là tất cả
quí vị này – dù hiện sinh sống ở Mỹ, ở Pháp hay ở Đức – đều trở thành những người
Việt lưu vong hay những người Việt tỵ nạn, không hơn không kém. Đánh giá hết sức
chủ quan, tôi buồn bã viết thêm là như vậy hàng ngũ chống cộng vô hình trung đã
mất đi những nhân vật đáng kính đáng quí.
Để
bổ sung ý kiến, tôi nêu trường hợp Bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Bác sĩ Nguyễn
Đan Quế được nhiều giải thưởng hơn Luật sư Nguyễn Văn Đài. Năm 1995, Robert F.
Kennedy Human Rights Award. Năm 2004, Certificate of Distinction in Civil
Courage thuộc US-based Civil Courage Prize. Cùng năm
2004 Asia-Pacific Initiative giới thiệu dự tranh giải Nobel Hoà bình.
Năm 2016, The Gwangju Prize for Human Rights của Nam Hàn. Việt cộng làm áp lực
rất nặng nề lên bác sĩ Quế để tống cổ Ông ra nước ngoài cho khuất mắt, khỏi phải
cử công an, mật vụ, an ninh, mật thám luân phiên thường xuyên canh gác, theo
dõi, rình mò, dò la ngôi nhà 102/7 (địa chỉ cũ, trước 1975) đường Nguyễn
Trãi, Sàigòn. Trong khi đó thì phía Hoa Kỳ công khai tuyên bố sẵn sàng nhận
bác sĩ Quế cùng gia đình nếu bác sĩ quyết định xin tỵ nạn tại Mỹ; dẫu vậy, bác
sĩ Nguyễn Đan Quế liên tục, cương quyết, cố định từ chối lời đề nghị của
phía Mỹ.
Chuyển
qua lịch sử nước Đức, tôi nhắc lại câu khẩu hiệu hào hùng từng vang dội trong
những cuộc tuần hành, biểu tình, mít-tinh ngày nào tại các thành phố Leipzig,
Berlin v.v..trên lãnh thổ Đông Đức cũ : “Wir bleiben hier!“ (Chúng tôi ở
lại đây!). Tôi kể thêm lời kêu gọi của Christa Wolf ngay trên truyền hình Đông
Đức vào ngày 8 tháng 11 năm 1989, hướng vào dân chúng Đông Đức : “Die jetzt
noch weggehen, mindern unsere Hoffnung.“ (Những kẻ ra đi bây giờ chỉ
khiến niềm hy vọng của chúng ta suy giảm). Trước khi chấm dứt bài viết,
tôi lại đơn cử trường hợp thần tượng của tôi, Linh mục Ba lan Jerzy
Popieluszko, người đã được Giáo hội Thiên chúa giáo phong thánh vì đã kiên cường
chống lại chế độ cộng sản và ủng hộ Phong trào Đoàn kết, người đã được Tổng
Giám mục Josef Glemp đề nghị cấp học bổng sang nghiên cứu ở La mã
nhưng đã thẳng thừng từ chối để ở lại cùng dân tộc và quê hương và cuối cùng để
hy sinh dưới tay những tên hung thủ mật vụ Ba lan.
Trước
khi viết bài và cho phổ biến bài, tôi tham khảo một người bạn Đức khác là Tiến
sĩ Josef Bordat, một blogger chuyên bảo vệ các bloggers Việt Nam hiện đang ở quốc
nội. Tiến sĩ Bordat thông cảm với nỗi ưu tư khắc khoải của tôi và đồng ý là tôi
có thể protest, phản kháng. Tôi cám ơn thái độ biểu đồng tình của
Tiến sĩ nhưng khẳng định cùng Ông là tôi sẽ không phản kháng bất cứ cá nhân, bất
cứ tổ chức nào. Tôi chỉ lễ độ, kính cẩn bitten, thỉnh cầu. Tôi
cầu xin cho điều tốt lành sẽ xảy ra đúng lúc đúng nơi – tôi tránh lạm dụng chữ
“phép lạ“ – để Luật sư Nguyễn Văn Đài cùng các bằng hữu của Luật sư sẽ hoạt động
chống cộng có hiệu quả trên vùng đất tạm dung mới.
Trân
trọng kính xin bà con vui lòng cùng cầu nguyện với tôi.
Trần
Văn Tích
No comments:
Post a Comment