Nguyễn Hữu Phần
26/07/2018
Lâu
nay, tôi cũng đọc nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, ý kiến… phân tích về
tình hình GDVN, những “chệch hướng”, “sai lầm”, “suy thoái”… đã kéo dài đã hàng
chục năm mà chưa có cách gì “điều chỉnh” “cải cách”… lại được. Nhìn chung, các
công trình nghiên cứu, bài viết, ý kiến… đều đi vào những vấn đề vĩ mô như
“triết lý giáo dục”, “cách mạng”, “đổi mới”, “thay đổi mô hình”, “điều chỉnh hệ
thống”, “trận đánh lớn”, “thay đổi căn bản” v.v… Những vấn đề lớn lao này không
phải là không cần thiết, nhưng khi bàn đến cái “vĩ mô” cũng cần thiết phải hiểu
rõ cơ sở hạ tầng của nó là gì? Cơ sở ấy liệu có “cáng” được những “gánh nặng”
cải cách, cải tổ rậm rộ đó hay không chứ?
Trong
bài viết này tôi chỉ mong muốn trình bày được những suy nghĩ của mình với một
vài vấn đề nhỏ (hoặc tưởng như là nhỏ) của GDVN, đó là vấn đề người làm giáo
dục (“người làm giáo dục” ở đây cần được hiểu là người trực tiếp đứng lớp, quản
lý hoạt động giáo dục ở trường học, các cấp học chứ không phải các quan chức
quản lý ngành). Nói tóm lại đó là vấn đề con người đang thực hiện các chủ
trường, nhiệm vụ giáo dục.
Tôi
nhớ cách đây đến gần chục năm (hình như năm 2007) báo chí có đăng một bài PV
Giáo sư Việt kiều Nguyễn Đăng Hưng, người rất quan tâm đến giáo dục Việt Nam.
Trong bài PV có câu hỏi và trả lời như sau:
PV.
- Giả sử nếu là Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Việt Nam, ba vấn đề ông ưu tiên giải quyết
là gì?
GS
NĐH - Tôi không hề nghĩ đến chức vụ ấy bởi tôi cũng chỉ là… một thường dân.
Nhưng giả thuyết là Bộ trưởng, tôi sẽ thay đổi ít nhất 50% nhân sự, sa thải
những người thiếu trách nhiệm, chỉ giữ lại những người tâm huyết.
Tôi
không định bàn đến con số 50 hay bao nhiêu phần trăm nhân sự ngành GD thiếu
trách nhiệm, tôi có cảm giác vị giáo sự này định nói về những quan chức, cán bộ
quản lý ngành, còn tôi lại muốn bàn về các nhà giáo trực tiếp làm công việc
giảng dạy các thế hệ học sinh. Cũng xin được hạn chế phạm vi bàn luận của tôi
là giáo viên trường phổ thông (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông)
chứ không (hoặc chưa) dám bàn luận về giáo viên các ngạch trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề, đại học và trên đại học.
I.
Người thầy và vị trí quan trọng của thầy giáo trong sự nghiệp giáo dục
Bất
cứ ngành kinh tế, khoa học,văn hoá, xã hội nào cũng cần đến lực lượng lao động.
Đội ngũ nhân sự có thể nhiều ít khác nhau, có thể là lực lượng lao động trí óc
hay chân tay, thậm chí có những ngành nghề khoa học hiện đại ngày càng sử dụng
ít, rất ít nhân sự vì đã có hệ thống công nghệ tự động. Nhưng giáo dục dù trong
thời đại khoa học kỹ thuật phát triển đến đâu cũng không thể thay thế vị trí
người thầy giáo bằng máy móc, phương tiện kỹ thuật. Hay nói cách khác là mặc dù
phương tiện kỹ thuật đã được đưa vào nhà trường, phục vụ, hỗ trợ cho việc dạy
học nhưng không thể thiếu vắng người thầy giáo, người truyền thụ kiến thức,
người quản lý, giáo dục học sinh.
Thầy (cô) giáo là những người lao động
trí óc (tuy nhiên cũng phải sử dụng không ít sức lực) có những đặc điểm riêng
khác với Người lao động ở các ngành nghề khác. Họ luôn luôn phải tiếp xúc trực
tiếp với đối tượng giáo dục (học sinh/con người), do vậy họ không chỉ là người
truyền thụ kiến thức như một cỗ máy mà còn cần phải thể hiện sự sáng tạo trong
phương pháp giảng dạy, phải là một hình mẫu có cá tính, có phẩm cách, kiến
thức, kinh nghiệm sống… để thể hiện trước đối tượng giáo dục của mình. Thầy
giáo dạy hay, có cách nhìn nhận, phương pháp giảng dạy độc đáo (khác biệt),
thầy giáo có đạo đức, nhiệt tình, có lòng yêu thương (trẻ em học sinh nói riêng
và con người nói chung) mới được học sinh tin tưởng, hào hứng tiếp nhận kiến
thức, ham thích học tập, rèn luyện và quan trọng hơn tôn trọng, coi thầy giáo
là một hình mẫu để noi theo.
Trong
hệ thống giáo dục trước đây, có khi cùng một bài dạy (về một bài thơ Đường luật
hay một trích đoạn Kiều chẳng hạn) nhưng mỗi thầy giáo lại có những cách dạy
khác nhau (tất nhiên là không sai kiến thức) thể hiện rõ trình độ hiểu biết và
cách quan sát, cách thể hiện cá tính của người thầy. Vì vậy phụ huynh mới có
nhu cầu chọn thầy và học sinh mới có niềm tự hào mình là học sinh của thầy A thầy
B nào đó (coi thầy giáo của mình hơn hẳn, hay khác biệt với những thầy giáo
khác).
Những
điều này không chỉ ở môn văn, các môn xã hội, mà ở bất kỳ môn học nào. Thầy
giáo không chỉ là người “dạy chữ” mà còn “dạy làm người” nữa. Người thầy giáo
là người hàng ngày đứng trước học sinh, tiếp xúc trực tiếp với các em để vừa
truyền thụ tri thức, vừa dùng bản thân (trí tuệ, phong cách, cá tình, nhân
cách…) của mình dạy cho các thế hệ học sinh trưởng thành, làm người.
Cho
đến bây giờ, phụ huynh và học sinh vẫn bàn đến và hy vọng vào trình độ kiến
thức cũng như tính cách của các thầy, cô giáo. Người ta nhận xét thầy, cô giáo
này hiền, nghiêm, ăn nói hấp dẫn… Tuy nhiên, đấy mới chỉ là một phần nhỏ trong
phẩm cách thầy giáo. Cao hơn nữa là những thầy giáo giỏi, yêu trẻ, nhiệt tình
với công việc giảng dạy… Nhưng rất thiếu những người thầy kết hợp nhuần nhuyễn
giữa cái giỏi (về tri thức) với cá tính sáng tạo, nhân cách để trở thành tấm
gương khiến học sinh cảm phục, kính yêu… không chỉ trong thời gian học mà có
khi đến suốt cuộc đời.
Thế
nhưng, những người thầy/cô giáo như vậy hiện đang có mặt đồng đảo trong hệ
thống giáo dục của chúng ta không? Xin nhìn lại những vấn đề về đào tạo, hoạt
động nghề nghiệp của hệ thống giáo viên phổ thông ta từ trước đến nay.
II.
Thầy giáo trong các trường phổ thông
1.
Sơ lược về đào tạo sư phạm đối với giáo viên phổ thông
Nhìn
lại cả quá trình đào tạo giáo viên ở các trường trung cấp, cao đẳng, đại học sư
phạm từ năm 1954 đến nay ta có thể nhận thấy một số vấn đề về giáo viên trong
thời kỳ đầu tiên xây dựng hệ thống giáo dục ở miền Bắc. Những năm ấy (sau khi
hoà bình lập lại) Ngành Giáo dục có nhu cầu rất lớn về giáo viên, ngoài việc sử
dụng lực lượng giáo viên trường công, trường tư của nền giáo dục cũ và nhanh
chóng thay thế bằng những lớp giáo viên mới được đào tạo cấp tốc từ các trường
sư phạm như: giáo viên 7+1 (học hết lớp 7, học thêm sư phạm 1 năm), 7+2, 10+1,
10+2, 10+3, đại học 4 năm… đấy là vấn đề đào tạo giáo viên. Còn về quan niệm xã
hội với nghề giáo viên cũng có những vấn đề đáng quan tâm: Sau CCRĐ, Cải tạo Tư
sản (1956, 1958) ngành học sư phạm bị coi thường so với các ngành học khác.
Những câu ca dao của thanh niên, học sinh ngày đó thể hiện rõ điều này “Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách
khoa, Sư phạm bỏ qua…” và sự thật như vậy, rất ít thanh niên đăng ký
hoặc thi vào các trường sư phạm. Còn Nhà nước (hoặc Ngành Giáo dục) cũng không
thật sự coi trọng ngành này, họ thường để cửa cho những thanh niên học sinh lý
lịch “không cơ bản” (con địa chủ, tư sản, nguỵ quân, nguỵ quyền, trí thức cũ…)
vào học ngành Sư phạm (những ngành quan trọng khác như Y, Dược, Bách khoa dành
cho con em công - nông - binh). Hồi đó khi vào trường sư phạm các tân sinh viên
thường hỏi nhau “cậu hay bố cậu có vấn đề gì mà phải vào trường này vậy?”.
Thế
nhưng những thanh niên con nhà đã từng giầu, đã từng có tri thức khi biết gạt
bỏ những sự thiếu công bằng vẫn có thể là những sinh viên giỏi và sau đó có
những thế hệ giáo viên có nhiều phẩm chất “thầy giáo”.
Thời
xây dựng CNXH và chiến tranh chống Mỹ cứu nước, ngành Sư phạm vẫn tiếp tục đón
nhận những sinh viên con em các gia đình không được xã hội đánh giá cao và học
hành phổ thông ở mức trung bình, yếu kém. Các hệ đào tạo 7+… và 10+… vẫn tiếp
tục đào tạo cho đến cuối thập kỷ 60 đầu 70 mới được thay thế dần… Những năm đầu
thế kỷ XXI, Bộ GD-ĐT đã có dự án “Chuẩn hoá giáo viên các cấp học phổ thông”
nghĩa là tập trung các giáo viên dưới chuẩn 10+2 (cấp tiểu học), 10+3 (cấp
THCS) đi học tập, bồi dưỡng vài ba tháng lấy bằng “Chứng nhận giáo viên đạt
chuẩn”).
Bây
giờ, các hệ đào tạo sư phạm ở trung ương và địa phương đã ổn định (cao đẳng sư
phạm cho mẫu giáo, tiểu học), đại học 3 năm, 4 năm cho THCS và THPT). Thế nhưng
trong các kỳ tuyển sinh đại học, ai cũng có thể nhận thấy học sinh THPT thuộc
tốp 1, tốp 2 (giỏi, khá) thưởng không nộp đơn vào các trường sư phạm cho dù ở
những trường này các em nhận được nhiều ưu đãi về học phí.
Điểm qua những chặng đường như vậy để
thấy việc đào tạo giáo viên chưa bao giờ được coi trọng cả với hệ thống quản lý
ngành cũng như trong quan niệm xã hội. Và những điều này đã trở thành một
trong những nguyên nhân cần xem xét khi bàn về chất lượng giáo viên phổ thông.
2.
Chất lượng và con đường hành nghề của giáo viên phổ thông
*
Sách “Hướng dẫn giảng dạy” và sự thiếu vắng cá tính sáng tạo, hạn chế, tiêu huỷ
khả năng cập nhật của giáo viên.
Tiếp
tục với vấn đề đào tạo giáo viên, chuẩn hoá giáo viên như trên, các trường phổ
thông dần dần có được đội ngũ giáo viên đạt chuẩn… đứng trên bục truyền dạy bồi
dưỡng phẩm chất trí tuệ, nhân cách cho học sinh. Những thầy/cô giáo này được
trở thành những cá thể có cá tính sáng tạo, có phẩm cách công dân, hình mầu làm
người để dìu dắt cho thế hệ trẻ.
Để
đảm bảo cho giáo viên giảng dạy đúng mục tiêu môn học, mục đích yêu cầu từng
bài học, Ngành Giáo dục đã soạn thảo, in, phát cho giáo viên sách “hướng dẫn
giảng dạy” cho từng môn học. Trong những cuốn sách này, các nhà biên soạn đã
hướng dẫn cho giáo viên từng bài giảng từ mục đích yêu cầu, phương pháp giảng
dạy, nội dung kiến thức cần truyền đạt (cần nhấn mạnh hoặc lướt qua), thậm chí
có sẵn cả hệ thống câu hỏi để sử dụng trong từng bước giảng dạy, từng phân mục
bài giảng... Sách “Hướng dẫn giảng dạy” cung cấp cho giáo viên từng giáo án bài
giảng. Người sử dụng chỉ cần áp dụng theo sách để thực hiện từng bước lên lớp.
(có những trường vẫn bắt giáo viên soạn giáo án, nộp, kiểm tra giáo án nhưng đó
chỉ là hình thức và giáo viên chắc chắn sẽ chép từ sách hướng dẫn là có giáo án
ngay).
Sách
hướng dẫn của ngành do các tác giả uy tín biên soạn và qua nhiều cấp duyệt thì chắc
chắn là đúng, là hay rồi. Tôi sẽ không bàn đến chất lượng sách mặc dù nhìn
chung những cuốn sách này thường được biên soạn một lần và dùng trong nhiều năm
học nên luôn thiếu sự đổi mới, không được cập nhật những thay đổi, tiến bộ của
tri thức và đời sống… cần thiết cho cả giáo viên và học sinh. Tôi muốn bàn đến
hệ quả của việc sử dụng các loại sách hướng dẫn này. Giáo viên được yêu cầu dạy
đủ, dạy đúng kế hoạch, chương trình năm học và nội dung trong sách hướng dẫn,
nên cũng không cần, không có điều kiện thể thể hiện khả năng sáng tạo, cá tính
sư phạm của mình trong giảng dạy kiến thức. Cứ như vậy các giáo viên nhanh
chóng trở thành những hình mẫu tương đối giống nhau như những bộ máy giảng dạy
tuy rằng họ vẫn có sự khác biệt về vẻ mặt, dáng người, cách cười nói…
Việc
dạy học thiếu cá tính, hình mẫu của người thầy chắc chắn sẽ không có sức thu
hút với học sinh cả trong việc truyền dạy kiến thức đến vai trò dạy làm người
mà chúng ta mong muốn. Nhưng không chỉ có thế, sách “Hướng dẫn giảng dạy” còn
tạo ra một thói quen có thể nói là nguy hiểm đối với người làm nghề thầy giáo:
Cái gì cũng đã có trong sách hướng dẫn rồi, như thế đã là rất đủ cho việc lên
lớp… nên người giáo viên dần dần đánh mất khả năng tham khảo, nghiên cứu, học
tập, cập nhật kiến thức khoa học (tự nhiên, xã hội, chuyên ngành…) ngoài xã hội
nữa.
Tôi
xin được kể một cuộc đối thoại với cô giáo dạy văn THCS ở Hà Nội: Là giáo viên
dạy văn nhưng cô giáo này không bao giờ đọc sách văn học, đúng ra khi học ở
trường sư phạm, cô ấy đã đọc được khoảng 5, 10 cuốn sách có trong chương trình
giảng dạy của nhà trường sư phạm, nhưng từ khi ra trường thì không… Vì “Tại sao
lại phải đọc khi trong sách hướng dẫn đã có đủ cả? Đây nhé, các nhà văn có
trong chương trình dạy đều có một trang đến trang rưỡi viết về tiểu sử, liệt kê
tên các tác tác phẩm lớn của tác giả đó (để tham khảo, mở rộng hiểu biết cho
giáo viên) trước khi có trích đoạn trong Sách giáo khoa mà giáo viên cần bình
giảng trên lớp”… Bằng cách đọc một hai trang tham khảo này, cô giáo dạy văn
biết hết các nhà văn lớn như Victo Hugo, Lep Tolstoi, Mácxim Gorski, Nguyễn Huy
Tường, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Huy Cận… Vì những tác giả này có trong
chương trình giảng dạy. Khi tôi hỏi: “Cô giáo biết gì về Văn học VN đương
đại?”, cô giáo trả lời: “Cần gì phải biết, mà biết cũng có dạy ở lớp được đâu.
Những tác giả, tác phẩm đương đại chưa được đưa vào chương trình giảng dạy thì
cần gì phải biết”… Thấy tôi ngạc nhiên, cô giáo nói thêm: “Thời gian để đọc
sách ấy, dành cho mở lớp dạy thêm còn kiếm ra tiền hơn”.
Xin
bảo đảm đây là câu chuyện có thật 100%, và nếu ai đó quen thân với giáo viên
chắc chắn họ sẽ kể cho những chuyện tương tự như vậy (còn nếu phỏng vấn để viết
báo họ sẽ không nói như thế đâu). Qua câu chuyện trên, tôi muốn nói đến khả
năng cập nhật kiến thức khoa học và đời sống của người làm nghề giáo viên (kể
cả giáo viên tự nhiên hay xã hội) đều rất đáng lo ngại. Một thí dụ nữa là nhà
trường phổ thông từ hơn chục năm nay đã đưa môn tin học vào giảng dạy, thế
nhưng bộ môn này hình như chỉ dành cho giáo viên bộ môn và học trò. Phần lớn
các giáo viên tự nhiên, xã hội trong hội đồng nhà trường không mấy ai thấy cần
phải tìm hiểu về CNTT cả. Về ngoại ngữ cũng tương tự như vậy. Tuy nhiên mấy năm
gần đây, lớp cử nhân sư phạm trẻ về các trường học phổ thông đã mang về, truyền
thụ cho giáo viên lớp trước nhiều hứng thú trong việc sử dụng các ứng dụng của
CNTT như facebook, smartphone, zalo, viber, mail… khiến cho “trình độ tin học”
ứng dụng của đội ngũ giáo viên có bước tiến bộ (cách đây 10 năm và cho đến tận
bây giờ, trình độ tin học, CNTT của giáo viên khá thấp, không ít giáo viên
không dám đụng tay đến máy tính - có những tiết giảng mẫu cho quan khách tham
dự giáo viên mù máy tính nhờ chồng, con, hoặc giáo viên tin học tạo giúp một
bản PPT để chỉ cần thò ngón tay ấn vào phím mũi tên lên xuống… và đã có nhiều
tình huống dở khóc dở cười về chyện này).
Trong
câu chuyện được kể ở phần trên, tôi quan tâm đến chi tiết “dành thời gian để mở
lớp dạy thêm, kiếm được nhiều tiền hơn”. Chắc người đọc sẽ thắc mắc: Tại sao
chất lượng giáo viên như vậy mà khi mở lớp dạy thêm lại có thể thu hút khá động
học sinh? Câu trả lời như nhiều người đã biết là những chiêu trò, bắt ép, doạ
dẫm, trù úm… buộc phụ huynh phải cho con đi học thêm… nhưng đó chỉ là một mặt
mang tính tiêu cực. Còn trong thực tế có nhiều lớp dạy thêm, nhiều thầy cô giáo
dạy thêm tạo được uy tín thực sự (như tỷ lệ học sinh đạt khá giỏi, thi đỗ lên
cấp ba, vào đại học cao). là do những thầy cô giáo này đã đặt mình, nghề nghiệp
của mình vào cơ chế thị trường, ở đó khoản thu nhập mà người thầy giáo (dạy
thêm) thu được tỷ lệ thuận với chất lượng truyền thụ kiến thức của họ, nghĩa là
những thầy cô giáo này phải vượt qua lối sống, lối làm việc thụ động trong hệ
thống trường học mà họ đang, đã làm việc. Họ sẽ phải đọc, nghiên cứu, tham khảo
những tài liệu liên quan, cập nhật tiến bộ khoa học và đời sống để nâng cao
trình độ cho mình, để dạy thêm có uy tín. để trở thành những thầy cô giáo dạy
thêm có khả năng, tạo được kết quả thực sự, Vậy là dạy thêm, mở trường tư (dân
lập, cổ đông) không phải hoàn toàn là tiêu cực, dạy thêm, mở trường dân lập có
tâm, có tầm, có thể những mặt tích cực, tạo ra sự cạnh tranh thực sự cho “thị
trường giáo dục” và tạo ra đòi hỏi người thầy giáo phải tự thay đổi mình.
*
Vốn sống, sự hiểu biết xã hội để giáo viên trở thành hình mẫu cho học sinh.
Giáo
viên là những người lao động tương đối ổn định (nhất là hệ thống giáo viên
trường công lập). Sau khi tốt nghiệp sư phạm, về trường phổ thông làm giáo viên
và sống dạy học suốt đời trong môi trường này, một môi trường tương đối bình
yên, ít có sự va đập, cạnh tranh quyết liệt như các ngành nghề khác. Cũng chính
vì vậy nên giáo viên ít có những trải nghiệm với đời sống xã hội.
Hãy
kiểm lại mỗi ngày và cả những năm làm nghề của người giáo viên trường phổ thông:
Đến trường, gặp gỡ đồng nghiệp, lên lớp giảng dạy, quản lý học sinh, tổ chức
các cuộc thi đua, các sinh hoạt tập thể (đoàn đội, câu lạc bộ…) cho học sinh.
Thỉnh thoảng gặp gỡ, tiếp xúc với phụ huynh học sinh… Môi trường làm việc tương
đối bình lặng, đơn giản, đối tượng tiếp xúc của người giáo viên chủ yếu là học
trò (ở lứa tuổi của cấp học) và phụ huynh học sinh. Mối quan hệ giữa hai đối
tượng này với giáo viên luôn ở vị thế không bình đẳng: thầy cô giáo là “thầy”
là người trên có thể cáu giận, quát nạt, trấn áp, thi hành kỷ luật học sinh.
Với phụ huynh học sinh dù nhiều người có cương vị xã hội, học vấn, hiểu biết
nhưng khi gặp thầy cô giáo cũng thường phải nhún nhường, tỏ ý tôn trọng, ở thế
người nhờ vả (nhờ thầy, cô trông nom, dạy bảo, giúp đỡ, tha thứ… cho cháu)…
Môi
trường sống và các mối quan hệ đơn giản, có thể hơi cách xa với đời sống xã
hội, cộng với sự “bất cập nhật” kiến thức cũng như đời sống xã hội (đã thành
thói quen của giới thầy cô giáo) tạo cho giáo viên có cảm giác về vị thế của
mình là rất quan trọng (vai trò trí thức, chức năng truyền dạy kiến thức và làm
người cho thế hệ tương lại). Từ đó sinh ra lối sống tự tôn, thiếu dân chủ trong
các mối quan hệ của mình. Thậm chí khi về gia đình, ra xã hội người giáo viên
cũng rất khó xác định đúng vị thế thực sự và thiếu rất nhiều kỹ năng sống, kỹ
năng giao tiếp theo quan niệm bình đẳng, dân chủ… Cũng có thể từ đấy sinh ra
những thói xấu, những việc làm tiêu cực trong giáo dục mà xã hội thường bàn
luận…
Sự
thiếu kiến thức về đời sống, xã hội của người giáo viên gây ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động giáo dục của thầy cô giáo trong các lĩnh vực “dạy làm người” cho
các thế hệ học trò, đồng thời tạo tình trạng bất hợp tác, thiếu trung thực, giả
tạo trong mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh và phụ huynh học sinh.
Như
vậy vai trò hình mẫu, tấm gương về tri thức, nhân cách, vốn sống… của người
giáo viên trược học sinh rất khó có thể bảo tồn được. Không khí trường học, mối
quan hệ thầy - trò - phụ huynh học sinh luôn chứa đựng đợt “sóng ngầm” của sự
phản ứng, thiếu tôn trọng, đồng thời làm nẩy sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực,
hay phản ứng thái quá (cãi cọ với thấy, bạn, chán học, bỏ học, bao lực học
đường…) trong một bộ phận học sinh.
3.
Một vấn đề tưởng như rất nhỏ của trường phổ thông: hiện trạng “nữ hoá giáo
dục”.
Từ
bao đời nay người ta vốn “mặc định” gíao viên là nam giới với cách gọi “thầy
giáo” (một trong năm nghề người làm nghề được gọi là thầy: thầy giáo, thầy
thuốc, thầy địa lý, thầy tu, thầy cúng). Các thế hệ nho sinh trong thời kỳ cổ
đại, cận đại và cả học trò học chữ quốc ngữ sau này đều được học tư các thầy.
Khi kể về sự thành đạt của mình người ta thường tự hào khoe rằng tôi là học trò
của thầy A, thầy B nào đó và chỉ như vậy cũng đã tạo được niềm tin cho người
khác (vì danh tiếng, uy tín, trình độ, nhân cách của thầy A thầy B đó đã được
cả xã hội tin tưởng).
Ngày
nay, nền giáo dục đương đại hình như rất thiếu vắng những người đàn ông làm
nghề giáo (thầy giáo), thay vào đó hầu hết giáo viên các cấp học từ mẫu giáo
đến THPT đều là phụ nữ (cô giáo). Tôi không có con số thống kê tỷ lệ giáo viên
nữ ở ngách GDPT hay từng cấp học, nhưng nếu đến một trường tiểu học, trung học
cơ sở, trung học phổ thông bất kỳ, ta có thể thấy tỷ lệ giáo viên nữ chiếm 100%
ở cấp mẫu giáo, khoảng 95% cấp tiểu học, 80-90% ở cấp THCS, và 75-80% ở cấp
THPT. Ngay từ nguồn đào tạo giáo viên, hàng năm các trường sư phạm nhận được
rất ít đơn dự tuyển của nam, nhiều lớp sư phạm 100% sinh viên nữ. Hình như cả
xã hội đã quan niệm nghề dạy học là nghề của phụ nữ chắc là vì nghề này nhàn
hạ, phù hợp với sức khoẻ của phụ nữ, hơn thế nữa phụ nữ trời sinh ra đã có chức
năng làm mẹ (sinh đẻ, nuôi, dạy con) nên làm giáo viên là tốt nhất.
Tôi
gọi hiện tượng này là “nữ
hoá giáo dục” và trong bài viết này tôi muốn luận bàn về cái hay, cái dở
trong việc “nữ hoá” này.
Trước
hết, tôi nghĩ nghề dạy học không giống với việc nuôi dạy con (do mình sinh ra).
Nghề dạy học là nghề hướng dẫn, rèn luyện cho thế hệ trẻ từng bước vào đời. Lớp
trẻ trong giáo dục là một đối tượng xã hội độc lập có quyền sống, quyền tự do,
bình đẳng trong việc tiếp nhận nền giáo dục và mối quan hệ giữa giáo viên với
học sinh (dù nhỏ tuổi) là bình đẳng (khác với quan hệ mẹ con). Giáo viên phải
tôn trọng và nâng đỡ cho sự phát triển tri thức, nhân cách của học sinh… Đó đó
không nên cho rằng chức năng sinh đẻ, nuôi, dạy con trong gia đình của phụ nữ
là hoàn toàn phù hợp với vai trò thầy giáo trong nhà trường.
Khi
bàn về giới, người ta thường bàn đến, chỉ ra những đặc điểm của phái nam, phái
nữ. Có những sự khác biệt về phẩm chất, tính cách, thói quen, điều tốt, điều
xấu liên quan đến mỗi giới. Vì vậy việc đội ngũ giáo viên phổ thông gần như chỉ
có nữ giới như hiện nay liệu có giúp chúng ta có được những hiệu quả giáo dục
cao nhất cho học sinh và sự nghiệp dạy người nói chung không?
Tôi
không có ý định liệt kê cái hay, cái dở trong tính cách của cả hai giới. Nam
hay nữ cũng có những đặc điểm mạnh, điểm yếu hiển hiện hoặc tiềm ẩn còn tuỳ
theo các tính, phẩm chất cụ thể mang tính các nhân của họ. Ở đây đang bàn về
“nữ hoá giáo dục” nên tôi muốn nói đến những đặc điểm tốt, xấu của giới nữ
trong đời sống và sự thể hiện những điều này trong môi trường giáo dục.
Ai
cũng công nhận phụ nữ là phái đẹp, thể hiện sự dịu dàng, nhỏ nhẹ, có sức thuyết
phục… nhưng cũng không tránh được những nhược điểm như thiếu công bằng, hay để
ý những chi tiết nhỏ, thiên về cảm tính, đôi khi thiếu kiềm chế… Có người
thường gọi là tính cách “đàn bà” (tôi không đồng ý, không muốn dùng từ này để
bình phẩm về phụ nữ. Thế nhưng nếu như người giảng dạy, dìu dắt các thế hệ trẻ
trưởng thành với mục tiêu trở thành những “con người toàn diện” mà lại chỉ có dành
cho phụ nữ làm nghề này thì chắc là sẽ gây ra sự thiên lệch, thiếu vắng những
phẩm chất cần thiết (chất “đàn ông”) cho các em trong quá trình trưởng thành và
phát triển sau này.
Đã
có không ít những trường hợp cô giáo lên lớp và cư xử với học sinh thiếu công
bằng, trù úm, thành kiến, bắt bẻ những điều nhỏ mọn, không thiết lập được mối
quan hệ bình đẳng, tôn trọng học sinh (do cảm tính), hoặc thể hiện trước lớp
học cả nhiều tâm trạng mang tính cá nhân như cáu giận ở đâu đó cũng trút vào
học sinh, tâm sự những điều không gắn bó gì với mục đích giáo dục của mình và
hơn thế nữa là giáo viên nữ vì quá bận bịu việc nhà nên ít cập nhật kiến thức
khoa học, đời sống xã hội hơn nam giới.
Có
những vị phụ huynh nói với tôi “con mình là con trai, nhưng cả 12 năm phổ thông
đều được học cô giáo, sau này chắc chắn cháu nó sẽ có “nữ tính”, sẽ có nhiều
phẩm cách đàn bà hơn, như thế liệu có trở thành người toàn diện không?”
Nguyên
cớ tại sao nam giới không thích vào ngành Sư phạm? Tại sao giáo dục bị “nữ hoá”
bản thân tôi cũng không giải thích được, nhưng tôi có cảm giác hệ thống quản lý
Ngành Giáo dục và cả xã hội vẫn thường coi vấn đề này là đương nhiên, không có
gì phải suy nghĩ cả… Thế nhưng với bản thân tôi và với những người đã từng qua
hệ thống giáo dục phổ thông khoảng 15, 20 năm trước đây, hầu như ai cũng mơ ước
trong nhà trường cần có tỷ lệ giáo viên nam, nữ tương đương, như vậy học trò
(cả nam và nữ) mới học được, rèn luyện theo những điểm tốt trong tính cách của
cả hai giới, học sinh không chỉ có nữ tính mà còn có tính cách “đàn ông” - rất
cần cho cuộc sống sau này.
III.
Có thể cải tổ Ngành Giáo dục bằng những chiến lược vĩ mô?
Cũng
như bất cứ ngành kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật nào, ngành GD-ĐT nước ta
cũng đã đạt được những thành tựu lớn là tạo ra những thế hệ công dân có đủ tri
thức, tư cách để thực hiện mọi nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước trong
những giai đoạn lịch sử vừa qua. Trước những đòi hỏi mới của thời kỳ đổi mới,
phát triển, hội nhập quốc tế ngày nay, Đảng, Nhà nước, Ngành GD-ĐT và toàn xã
hội đều đã nhận ra và thẳng thắn nhìn nhận vào những yếu kém, lạc hậu của cả
nền giáo dục và trong từng lĩnh vực hoạt động của ngành. Những cuộc tranh luận
nảy lửa, những quyết sách được đề ra, những cuộc thể nghiệm đã được thực hiện…
nhưng việc thay đổi cơ bản việc dạy và học, hệ thống nhà trường, nội dung giảng
dạy vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Với
suy nghĩ cá nhân của mình, tôi mong muốn các nhà làm chính sách, những người
tâm huyết với sự nghiệp giáo dục không chỉ quan tâm đến những vấn đề lý luận,
những chủ trương, chính sách mà phải nhìn nhận vào thực tế của các hệ thống
giáo dục, trong đó quan trọng nhất là giáo dục phổ thông, để mọi chủ trương
chính sách gắn bó và có tác dụng thực sự với mục tiêu cải cách mà chúng ta đang
tiến hành.
Trên
đây là những ý kiến mang tính cá nhân, chủ quan. Tôi rất mong nhận được sự hồi
đáp của các tầng lớp xã hội, đặc biệt là những nhà nghiên cứu giáo dục đang làm
việc hết sức mình cho sự thay đổi, phát triển nền giáo dục nước nhà.
N.H.P.
Tác
giả gửi BVN.
No comments:
Post a Comment