Hồ Bạch
Thảo
31/07/2018
Các
lãnh tụ Trung Quốc từng khẳng định rằng Trung Quốc có chủ quyền trên biển Nam Hải
từ đời nhà Hán. Bằng chứng xưa nhất họ nêu lên là biển Trướng Hải, ghi trong
quyển sách cổ nhan đề Dị Vật Chí [异物志] của Dương Phu đời
Đông Hán. Sách này tuy đã thất truyền nhưng được các tác gỉả Trung Quốc đời Tống,
Minh, Thanh, nhắc lại như sau:
漲海崎頭水淺而多磁石徼外大舟錮以鐵葉值之多拔 (1)
[Trướng
Hải kỳ đầu thủy thiển nhi đa từ thạch khiếu ngoại đại châu cứ dĩ thiết diệp trị
chi đa bạt]
Tại
Trướng Hải Kỳ Ðầu nước cạn nhưng nhiều đá nam châm, thuyền lớn đi ngoài cõi, dưới
thuyền gắn lá sắt sẽ bị nhổ ra.
Sách Ngã
Quốc Nam Hải Sử Liệu Hối Biên [我國南海諸島史料滙编]
do Trung Quốc xuất bản nhắm giành chủ quyền trên Biển Đông, bàn về sử liệu nêu
trên, cho rằng Trướng Hải là biển Nam Hải tức biển nam Trung Quốc bao gồm các đảo
như Tây Sa [Hoàng Sa, Việt Nam], Nam Sa [Trường Sa, Việt Nam]. (2)
Chúng
tôi xin dùng sử liệu cũng thuộc thư tịch Trung Quốc, phần lớn trong Nhị
Thập Tứ Sử [二十四史 The Twenty Four Histories] để chứng minh ngược
lại rằng Trướng Hải thuộc Việt Nam ; chiếu theo trình tự , xin lần lượt trích dẫn
như sau :
Năm
Nguyên Đỉnh thứ 6 [111
trước Công nguyên], Hán Vũ Đế xua quân xâm lăng nước Nam Việt; chia đất
này thành 9 quận, gồm: Đam Nhĩ, Châu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố,
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam; đặt dưới quyền Thứ sử Giao Chỉ. Đến đời Hán
Nguyên Đế [46 trước Công nguyên], các quận Đam Nhĩ, Châu Nhai
chống đối nên phải bãi bỏ, còn lại 7 quận; lúc đầu đặt dưới quyền Thứ sử Giao
Chỉ, sau thuộc Thứ sử bộ Giao Châu.
Kể
từ khi xâm lăng nước Nam Việt, Trung Quốc bước đầu biết đến vùng biển phương
nam, vùng thủy triều lên xuống gấp, được đặt tên là Trướng Hải.
Sách Hậu
Hán Thư [後漢書 The Book of The Later Han] của Tạ Thừa [謝承], tại quyển 1 chép:
“...7
quận Giao Chỉ cống hiến, đều từ Trướng Hải vào [Trung Quốc]....7 quận
Giao Chỉ hiến long nhãn... Trên đây thuộc Thứ sử bộ Giao Châu....”
[…交趾七郡貢獻,皆從漲海出入..交趾七郡 獻龍眼…以上屬交州刺史部]
Dưới
thời Bắc thuộc, quan lại cai trị thường lấy long nhãn từ quận Giao Chỉ đem tiến
cống; Giao Chỉ thời Hán vị trí tại miền bắc Việt Nam hiện nay. Nhãn nỗi tiếng tại
tỉnh Hưng Yên, thuộc lưu vực sông Hồng; từ đó chở về Trung Quốc phải qua vùng
biển thuộc các tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh. Đoạn văn này chỉ cho biết vị trí Trướng
Hải tại vùng biển Bắc phần, Việt Nam ngày nay.
Quách
Phác thời Đông Tấn, chú thích sách Nhĩ Nhã, đề cập đến Trướng Hải như sau :
“ Ốc
loa lớn như cái đấu sinh ra từ Trướng Hải quận Nhật Nam, có thể dùng làm chén uống
rượu.”
[螺 大 者 如 斗, 出 日 南 漲 海中, 可 以 爲 酒]
Theo
nghiên cứu của h ọc giả Đào Duy Anh (3) lãnh thổ quận Nhật Nam đời Tấn khoảng từ
tỉnh Quảng Bình đến đèo Hải Vân, Đà Nẵng. Như vậy vùng biển miền Trung Việt Nam
cũng thuộc Trướng Hải.
Tại
nước Việt Nam giai đoạn tự chủ dưới thời Tiền Lê, trong cuộc tiếp xúc với Sứ thần
Trung Quốc Lý Nhược Chuyết vào năm Bính Thân [996], vua Lê Đại Hành tức Lê Hoàn
đã khẳng định chức phận của An Nam là giữ an ninh biển Trướng Hải. Tổng sử [宋史, History of Song]
quyển 488, Liệt truyện Giao Chỉ, trích dẫn như sau :
“ Hoàn
ngạc nhiên dời chiếu đứng dậy nói : Hải tặc phạm biên, là tội của thủ thần ;
Thánh quân khoan dung, ơn quá cha mẹ, không gia tru phạt. Từ nay cẩn thận giữ
chức phận đã giao, giữ yên nơi Trướng Hải.”
[桓愕然避席,曰:「海賊犯邊,守臣之罪也。 聖君容貸,恩過父母,未加誅責。自今謹守職約,保永清於漲海].”
Lời
nói của vua Lê Đại Hành khẳng định Trướng Hải thuộc Việt Nam và vua ta đã hứa với
vua Tống giữ gìn an ninh vùng biển này.
Qua
4 sử liệu dẫn chứng, chỉ cho biết vị trí Trướng Hải tiếp giáp với bờ bể Việt
Nam. Khảo thêm sách Đông Tây Dương Khảo [東西洋考] của Trương Tiếp đời
Minh, trong mục “Giao Chỉ Dương 交阯洋”[〈Biển Giao Chỉ], tác
giả nêu lên bài thơ “ Độ Hải Thi” của thi sĩ đời Đường, Thẩm Tuyền Ký,
trong đó có đề cập đến Trướng Hải. Lời giới thiệu Biển Giao Chỉ, Trương Tiếp viết
như sau:
“
Giao Chỉ dương Đường Thẩm Tuyền Kỳ hữu Độ Hải Thi
交阯洋〈唐沈期有《渡海詩”
[Về Biển Giao Chỉ, thi sĩ đời Đường Thẩm Tuyền Kỳ có bài thơ Độ Hải Thi.]
Sách Đại
Minh Nhất Thống Chí [大明一統志], quyển 90, trong mục
“Biển” chép rằng “biển bao bọc phía đông nam các phủ Giao Châu.” [海〈環交州等府東南]; rồi cũng giới thiệu
bài “Độ Hải Thi” của Thẩm Tuyền Kỳ. Bài thơ “Độ Hải Thi” trong 2 sách
trích dẫn, đề cập đến Trướng Hải; như vậy có thể hiểu Trướng Hải, biển Giao Chỉ
đều là những tên gọi để chỉ Biển Đông Việt Nam hiện nay.
Trước
khi đi sâu vào bài thơ, xin tìm hiểu qua về tác giả Thẩm Tuyền Kỳ : Ông sinh
vào thời Đường Cao Tông Hiển Khánh thứ nhất (656), mất đời Huyền Tông Khai
Nguyên thứ 2 (714). Ðậu tiến sĩ năm Thượng Nguyên thứ 2 (675), được ban chức Hiệp
Luật Lang thời Vũ Hậu, rồi thăng Khảo Công Viên Ngoại Lang. Vì nhận hối lộ nên
bị hạ ngục, khi ra khỏi ngục được phục chức, đổi làm Cấp Sự Trung. Lúc bây giờ
Vũ Hậu hoang dâm, sủng ái hai anh em đẹp trai nhà họ Trương, Xương Tông và Dịch
Chi ; Thẩm Tuyền Kỳ kết giao với hai người này, nên bị liên luỵ. Năm Thần Long
thứ nhất (705) xảy ra cuộc đảo chính trong cung đình, Trương Xương Tông và
Trương Dịch Chi bị chém chết ; quân đảo chính đòi hỏi Vũ Hậu phải từ chức, trả
ngôi lại cho con là Ðường Trung Tông. Vị vua này truy tội những người có dính
líu với anh em nhà họ Trương, do đó Thẩm Tuyền Kỳ bị đày sang châu Hoan [Nghệ
An], thuộc An Nam Đô Hộ phủ. Vào năm Thần Long thứ 3 (707) được tha và ban chức
Khởi Cư Lang, thường hầu cận trong cung, cuối đời được thăng chức Thái Tử Thiếu
Chiêm Sự.
Lúc
đi đày sang An Nam Đô Hộ phủ, từ phương bắc lặn lội xuống miền nam Trung Quốc,
Thẩm Tuyền Kỳ phải băng qua quan ải Quỉ Môn hiểm trở tại Quảng Tây, nhân đó làm
bài thơ Nhập Quỷ Môn Quan [入鬼門 關]. Rồi vượt biển vào
An Nam Đô Hộ phủ, ông làm bài thơ Độ Hải Thi. Cần lưu ý phần khảo dị,
trong Toàn Đường Thi, tác phẩm Độ Hải Thi được nêu lên nhưng
với nhan đề là Độ An Hải Nhập Long Biên [渡 安海 入 龍 編], và chép tăng thêm
8 câu. Tra chính sử Đường Thư, vào đời Đường, năm Điều Lộ thứ
nhất [679] đặt An Nam Đô Hộ Phủ coi 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, như vậy
nhan đề Độ An Hải Nhập Long Biên có nghĩa là : Vượt biển An Nam Đô Hộ Phủ đi
vào thành Long Biên [Hà Nội].
Bài
thơ chép trong Đông Tây Dương Khảo và Đại
Minh Nhất Thống Chí như sau:
交阯洋唐沈佺期有《渡海詩》:
嘗聞交阯郡,
南與貫胸連。
四氣分寒少,
三光置日偏.
越人遙捧翟,
漠將下飛鳶。
北斗崇山掛,
南風漲海牽。
別離頻改月,
容鬢驟催年.
虛道崩城淚,
明心不應天。
南與貫胸連。
四氣分寒少,
三光置日偏.
越人遙捧翟,
漠將下飛鳶。
北斗崇山掛,
南風漲海牽。
別離頻改月,
容鬢驟催年.
虛道崩城淚,
明心不應天。
Phiên
âm :
Giao
Chỉ Dương, Đường Thẩm Tuyền Kỳ hữu Độ Hải Thi:
Thường
văn Giao Chỉ quận,
Nam dữ Quán Hung liên.
Tứ khí phân hàn thiểu,
Tam quang trí nhật thiên.(4)
Việt nhân dao phủng địch,
Hán tướng hạ phi diên.
Bắc đẩu Sùng Sơn quải,
Nam phong Trướng Hải khiên.
Biệt ly tần cải nguyệt,
Dung phát sậu thôi niên. (5)
Hư đạo băng thành lệ,
Minh tâm bất ứng thiên.
Nam dữ Quán Hung liên.
Tứ khí phân hàn thiểu,
Tam quang trí nhật thiên.(4)
Việt nhân dao phủng địch,
Hán tướng hạ phi diên.
Bắc đẩu Sùng Sơn quải,
Nam phong Trướng Hải khiên.
Biệt ly tần cải nguyệt,
Dung phát sậu thôi niên. (5)
Hư đạo băng thành lệ,
Minh tâm bất ứng thiên.
Dịch
nghĩa:
Biển
Giao Chỉ: thi sĩ Thẩm Tuyền đời Đường có bài thơ Độ Hải Thi.
Ta
từng nghe tại quận Giao Chỉ,
Phía nam giáp với nước Quán Hung (6)
Thời tiết tuy 4 mùa, nhưng mùa đông lạnh ít,
Trong 3 thứ ánh sáng (7), riêng ảnh hưởng lớn bởi mặt trời.
Nhớ chuyện thời Chu, dân Việt nơi xa xôi đến dâng lông đuôi chim trĩ,
Tướng Hán, Mã Viện, ngắm cảnh chim cắt bay rồi rơi phịch xuống Hồ Tây.
Sao Bắc Đẩu treo lững lơ trên đền Sùng Sơn (8) Thanh Hóa,
Gió nam từ Trướng Hải dẫn đến nơi này.
Biệt ly theo ngày tháng chồng chất,
Tóc tai dung mạo đổi thay như thôi thúc năm mới đến.
Lời nói vu vơ bất giác khiến lệ tuôn tràn,
Tấm lòng trong trắng sao chưa thấu đến trời!
Phía nam giáp với nước Quán Hung (6)
Thời tiết tuy 4 mùa, nhưng mùa đông lạnh ít,
Trong 3 thứ ánh sáng (7), riêng ảnh hưởng lớn bởi mặt trời.
Nhớ chuyện thời Chu, dân Việt nơi xa xôi đến dâng lông đuôi chim trĩ,
Tướng Hán, Mã Viện, ngắm cảnh chim cắt bay rồi rơi phịch xuống Hồ Tây.
Sao Bắc Đẩu treo lững lơ trên đền Sùng Sơn (8) Thanh Hóa,
Gió nam từ Trướng Hải dẫn đến nơi này.
Biệt ly theo ngày tháng chồng chất,
Tóc tai dung mạo đổi thay như thôi thúc năm mới đến.
Lời nói vu vơ bất giác khiến lệ tuôn tràn,
Tấm lòng trong trắng sao chưa thấu đến trời!
*
Bài
thơ mô tả một cách rõ nét hình ảnh đền Sùng Sơn tại thị trấn Bỉm Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, vị trí có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng cửa biển Thần Phù, nơi giáp
giới tỉnh Ninh Bình; đón nhận làn gió nam từ Trướng Hải thổi đến:
Bắc
Đẩu Sùng Sơn quải,
Nam phong Trướng Hải khiên.
Nam phong Trướng Hải khiên.
Hình
ảnh trên giúp người đọc thấy rõ Trướng Hải là Biển Đông thân yêu, ôm lấy bờ biển
Việt Nam.
Hồ
Bạch Thảo
-----------------
Chú
thích :
1. Ngã
Quốc Nam Hải Sử Liệu Hối Biên [我國南海諸島史料滙编]
trang 23; nhà xuất bản Hạ Môn Ðại Học Nam Dương Nghiên Cứu sở, Trung Quốc,
1975.
2. Ngã
Quốc Nam Hải Sử Liệu Hối Biên. Sđd. Trang 24.
3.
Đào Duy Anh, Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời, NXB Thuận Hoá:
Huế, 1994, trang 78.
4.
Trong Độ An Hải Nhập Long Biên [渡 安海 入 龍 編]] dưới câu này, thêm
4 câu:
尉 佗 曾 馭 國,
Úy
Ðà tằng ngự quốc,
[Viên
Úy Triệu Đà từng ngự trị nước này]
翁仲久 游 泉,
Ông
Trọng cựu du tuyền.
[Lý
Ông Trọng thời An Dương Vương xưa thường du ngoạn suối khe]
邑 屋 連 甿 在 ,
Ấp
ốc liên mang tại,
[Thôn
ấp cửa nhà trù mật]
魚 鹽 舊 產
傳
,
Ngư
diêm cựu sản truyền.
Cá
muối vốn là nghề xưa truyền lại]
5.Trong Độ
An Hải Nhập Long Biên [渡 安海 入 龍 編] dưới câu này, lại
có thêm 4 câu :
昆 弟 搉 由 命,
Côn
đệ tồi do mệnh,
[Anh
em lưu lạc do số mệnh]
妻 孥 割 付 緣 ,
Thê
noa cát phó duyên.
[Vợ
con bị chia cắt, mặc cho duyên số]
夢 來 魂 尚 擾 ,
Mộng
lai hồn thượng nhiễu,
[Trong
giấc mộng hồn vấn vương]
愁 委 病 空 纏,
Sầu
ủy bệnh không triền.
[Buồn
sầu quấn quít bởi bệnh].
6.
Quán Hung : sách Sơn Hải Kinh mục Hải Ngoại Nam Kinh ghi
Quán Hung là nước tại phía đông, dân nước này bụng có lỗ [山海经·海外南经》:“贯匈国在其东,其为人匈有窍]. Nhân dịp xin cáo lỗi; khoảng 10 năm về trước
chưa tra được những điển tích liên quan, nên trong bài viết “Theo dấu chân thi
sĩ Thẩm Thuyên Kỳ (沈佺期) về thăm quê hương” tôi đã dịch sai 3 danh từ
riêng thành danh từ chung ; như nước Quán Hung là “dùi lỗ vào bụng”; Trướng Hải
là nước dâng lên, và Sùng Sơn là núi cao. Do sở học thô thiển và chữ Nho không
viết hoa, nên không phân biệt được đó là những danh từ riêng [proper noun].
7. Tam
quang chỉ 3 thứ ánh sáng : mặt trời, mặt trăng, và sao.
8.
Sùng Sơn tức Sùng Sơn từ, hay đền Sùng Sơn tại Thanh Hóa. NXB Khoa Học Xã Hội
năm 2011 cho xuất bản tập thơ Cẩm Đình Thi của Tiến
sĩ đời Nguyễn, Phan Thúc Trực; trong đó có bài thơ Sùng Sơn Từ,
nguyên văn, phiên âm và dịch nghĩa như sau:
崇山祠
崇山顯赫何年是,
一簇崇祠閱古今。
幾度桑滄存廟貌,
千秋香火在人心。
環墻碧草自春色,
隔葉黃鶯空好音。
對景不消談往事,
神符海口望中深。
Sùng
Sơn từ
Sùng
sơn hiển hách hà niên thị,
Nhất
thốc sùng từ duyệt cổ kim.
Kỷ
độ tang thương tồn miếu mạo,
Thiên
thu hương hoả tại nhân tâm.
Hoàn
tường bích thảo tự xuân sắc,
Cách
diệp hoàng anh không hảo âm.
Đối
cảnh bất tiêu đàm vãng sự,
Thần
Phù hải khẩu vọng trung thâm.
Dịch
nghĩa
Núi
Sùng hiển hách tự năm nào
Một
ngôi đền lớn trải từ xưa tới nay
Mấy
độ tang thương đền miếu vẫn còn đó
Ngàn
thu hương hoả ở lòng người
Cỏ
xanh trên tường vây quanh tự toả sắc xuân
Chim
hoàng anh trong lá hót lảnh lót
Trước
cảnh quên bàn chuyện đã qua
Ngắm
cửa biển Thần Phù trong sâu thẳm
No comments:
Post a Comment