Cao Huy Thuần
22/07/2018
Các anh chị thân mến, xin các anh chị xem đây chỉ là
một bài nhập đề, một món ăn chơi trước khi nhập tiệc. Chúng ta nói đến
"trật tự mới", nhưng thế nào là "trật tự" và đâu là trật tự
cũ để bây giờ ta nói thế giới đã bước qua trật tự mới? Vấn đề vừa lý thuyết vừa
dài dòng lịch sử, tôi chỉ xin tóm lược.
Trước
hết, thế giới chưa bao giờ trật tự, nếu ta hiểu
"trật tự" như trật tự trong một quốc gia. Nhưng thế giới cũng không
phải là rừng rú, cho nên ta cũng đành phải nói trật tự, tuy ai cũng thừa biết
rằng đó là trật tự được sắp đặt dưới sức mạnh của các nước lớn và không phải ai
cũng chấp nhận. Giống như một mặt biển tưởng có lúc phẳng lặng nhưng bao giờ
phía dưới cũng có những đợt sóng ngầm, trật tự nào trên thế giới cũng có kẻ
phản đối, từ ngầm đến nổi, nhưng phản ứng nào của kẻ yếu cũng nhân danh một "trật
tự" khác để thay thế. Từ đó mà có "trật tự cũ" và "trật tự
mới", khái niệm "trật tự" là cơm bữa của các lý thuyết gia.
Thứ
hai, trật tự ấy là quốc tế hay thế giới? Tiếng Anh quen
dùng từ "world order", world là thế
giới; thế giới gồm nhiều lực lượng, nhiều sức mạnh không cứ là quốc gia. Hải
tặc trên biển lắm khi mạnh hơn cả hải quân. Ông Facebook, ông Google, ông
Amazon ngự trị trên một không gian không có biên giới lãnh thổ. Thế nhưng chiến
tranh vẫn là chiến tranh giữa các quốc gia, Biển Đông mênh mông vẫn có kẻ vẽ
đường lưỡi bò, "Việt kiều" về nước mẹ vẫn âm thầm nhận một khuôn dấu
hải quan trên hộ chiếu Việt Nam, chung thủy là trong lòng, bước qua là biên
giới. Thực tế quốc gia vẫn sờ sờ ra đấy như yếu tố lớn nhất, quyết định nhất,
trong mọi quan hệ trên thế giới. Quan hệ ấy, ta lại gọi là "quan hệ quốc
tế" giống như tiếng Pháp tiếng Anh, "international
relations". Bởi vậy, ông tổ sư của ngành quan hệ quốc tế trong
đại học Pháp, Raymond Aron, không dùng khái niệm trật tự; ông dùng khái niệm
"hoà bình" bởi vì đó là tình trạng liên quan đến các quốc gia. Ông
nói, và ông nói có lý: giữa các quốc gia với nhau, chỉ có một trong hai tình
trạng thôi, hoặc là hoà bình, hoặc là chiến tranh. "Cho đến bây giờ, ông
viết, hoà bình là tình trạng không sử dụng các thể thức bạo lực, trong một thời
gian hoặc ngắn hoặc dài, nhưng cạnh tranh là thường xuyên giữa các quốc
gia". Cạnh tranh luôn luôn có, thương mãi luôn luôn có, nhưng vũ khí không
nổ: ấy là hoà bình.
Với một quan niệm "hoà bình" như vậy, quan
hệ giữa các quốc gia trên thế giới có thể bài trí dưới ba hình thức để khỏi đi
đến chiến tranh: hoặc là đế quốc, hoặc là bá quyền, hoặc là cân bằng lực lượng.
Lịch sử châu Âu có Pax Romana. Lịch sử châu Á có thiên tử. Lịch sử hậu Napoléon
có hoà bình của Metternich dựa trên cân bằng lực lượng giữa Đức, Pháp, Áo, Anh,
Nga. Pax Romana thì xa quá rồi và không liên quan đến ta. Nhưng Pax Americana
thì gần ta lắm và đỉnh cao là "hyperpuissance" dưới
thời Bush con. Bây giờ đây, và không biết cho đến bao giờ, Pax Sinica là cái rọ
đang chực úp trên đầu ta.
Mô hình "Peace and War", vì
vậy, ăn khớp với quan tâm của ta hơn, vì ai cũng nói đó là nơi hội tụ trọng
điểm để nổ chiến tranh. Nhưng ấy là giới hạn vấn đề trong vùng. Trên toàn thế
giới, khái niệm trật tự vẫn được ưa chuộng và đi kèm theo khái niệm
"cực": trật tự nhất cực, trật tự lưỡng cực, trật tự đa cực. Nhất cực
là dưới thời Bush con. Lưỡng cực là trong chiến tranh lạnh. Đa cực là từ sau
thời Bush. So sánh với Pax Sinica, thì ta có thể nói: trên toàn thế giới, đó là
tình trạng trung gian gian giữa "đa cực" và "lưỡng cực"
(G2); trong vùng của ta, đó là hình thức trung gian giữa "lưỡng cực"
và "nhất cực", với cái viễn tượng mà "nó" nhắm: mặt trời
thì chỉ có một.
Từ sự phân biệt về cực, lý thuyết dễ dàng định hình
giữa "cũ" và "mới". Cái mới của ngày hôm qua là đa cực. Cái
mới ấy, nay đã thành cũ. Cái mới của bây giờ là chẳng còn thấy cực nào nữa. Có
phải đấy là cái thế giới mới mà các anh chị muốn nói đến chăng? Cũng chưa hẳn,
nhưng tôi xin nói về sự mất tích của khái niệm "cực" trước đã, thế
giới ngày hôm nay cực kỳ lộn xộn, phức tạp, hỗn loạn, vô trật tự, vô phương
hướng. Có người gọi đó là "apolaire", dịch là "phi
cực" chăng? Ông Laurent Fabius, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao thời
Hollande, gọi đó là "zéro polaire"(1). Thì
cũng như gọi lợn là heo, nhưng dễ dịch hơn: "zéro cực". Không có cực.
Tả pí lù.
Vậy trước hết, thế giới ngày nay là một
thế giới tả pí lù. Hồi 1991, khi Mỹ độc tôn trên thượng đỉnh thế giới, khi Liên
Xô cáo chung, một ông lý thuyết gia mà ai cũng biết tên, trót dại xướng lên một
thuyết mà bây giờ ai cũng cười: "lịch sử chấm dứt"."The end
of History". Bởi vì ông nghĩ rằng trên thế giới từ đây chỉ còn
một trật tự duy nhất thôi là "trật tự tự do" - một "liberal
order" - với dân chủ, kinh tế thị trường, và các giá trị của Tây
phương. Đâu ngờ! Thay vì lịch sử chấm dứt, lịch sử chảy ào ào như thác đổ, ồ ạt
xuất hiện loạn xà ngầu vô số thế lực quốc gia và phi quốc gia cạnh tranh nhau
thường xuyên, nào chính phủ, nào xí nghiệp, nào ngân hàng, nào quỹ tài chánh, nào
Standard & Poor's, nào Weakileaks, nào truyền thông, nào mafia, nào Allah
Akbar, nào đốp chát văn minh... tất cả đều có trước đó, nhưng bây giờ không có
thế lực quốc gia nào "trật tự hoá" nổi, dù G20, G7, WTO. Ngày trước,
địa chính trị chỉ biết đất và biển, sau đó mới nhìn lên không. Bây giờ trên
không không phải chỉ có máy bay, vệ tinh, mà bao nhiêu thứ sóng, tấn công nhau
không phải đùng đùng súng đạn mà vô hình vi-rút, do thám nhau khỏi cần gián
điệp, một cái bụng mang bom đủ gây kinh hoàng cho cả thế giới, đại cường số một
cũng không thắng nổi một lủ cờ đen, bạc ảo thay cho bạc thật, biển cả không doạ
nỗi tiếp tiếp làn sóng di cư, nghèo đói nơi này là bất an ninh nơi khác...
Chẳng ai biết thế giới sẽ đi đến một trật tự nào.
Từ đó, thứ hai, ngay cả khái niệm sức
mạnh - power, puissance - trên đó những lý thuyết
về "cực" được xây dựng, cũng bị khủng hoảng. Trước đây, danh từ ấy
được dùng để chỉ các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc và chỉ các cường quốc
tạo dựng trật tự thế giới. Ngày nay, khi nước Mỹ tuyên bố "chiến tranh
chống khủng bố", khủng bố bỗng biến thành địch thủ ngang ngửa với siêu
cường, cũng là "sức mạnh" như ai, đâu có riêng gì quốc gia? Cả khái
niệm "chiến tranh" cũng vậy. Ngày trước, chiến tranh là giữa các quốc
gia với nhau, bây giờ khi drones của Mỹ đuổi theo các đầu đảng của "khủng
bố" ở biên giới Pakistan, đâu còn chiến tranh theo đúng nghĩa của luật
pháp cổ điển? Chiến tranh ngày nay hầu hết là nội chiến nhưng hậu quả lại lan
đến tận những nước giàu xa xôi ngàn dặm. Đâu là biên giới của an ninh? Giữa các
quốc gia với nhau, trật tự có thể được an bài hoặc bằng bạo lực, hoặc bằng
thương thuyết; bây giờ, giữa các quốc gia và loạn xà ngầu các tay chơi quốc tế,
tay nào cũng là "sức mạnh" cả, ai an bài ai được? Các lý thuyết gia
nói: thế giới ngày nay là một thế giới vỡ. Như nhìn vào một cái gương vỡ, nào
ai thấy được hình ảnh gì rõ rệt.
Thứ
ba, thế giới hiện nay là vỡ còn vì sức mạnh được phân
tán giữa các quốc gia. Mỹ hãy còn là cường quốc đứng đầu thế giới, nhưng chỉ rõ
ràng trên lĩnh vực quân sự. Những yếu tố khác của sức mạnh, nhất là kinh tế, Âu
châu còn được xem là cường quốc, còn Trung Quốc thì khỏi nói. Ông Fabius tiên
đoán thêm: 3 nước Âu châu hiện nay hãy còn đứng vào hàng ngũ 6 nước mạnh nhất
về kinh tế sẽ mất hẳn địa vị ấy vào năm 2030; hai mươi năm sau, 2050, trong 30
nước đầu đàn về kinh tế, 19 nước là các nước "đang trổi lên". Các
nước ấy là nước nào? Cách đây chục năm, ai cũng nói đến BRICS (Brazil, Nga, Ấn,
Trung Quốc, Nam Phi). Bây giờ ai cũng nói sức mạnh đang dời về châu Á, đoán
rằng Trung Quốc và Ấn Độ sẽ ngự trị thế kỷ 21. Dự phóng tương lai vốn là nghề
của các Forum quốc tế. Forum Saint-Laurent ở Montréal, Canada, căn cứ trên
thống kê, nói chính xác hơn trong kỳ họp tháng 5 năm nay: Năm 1995, tỷ lệ của
G7 trong PIB (GDP) của cả thế giới là 45%; năm 2018 sụt xuống 31%; năm 2050 sẽ
chỉ còn 20%. Ngược lại, tỷ lệ đó của các nước "đang trổi lên" là 22%
năm 1995, 36,3% năm 2015, xấp xỉ 50% năm 2500(2) . Tôi không
ham chuyện tiên đoán, trích các con số đó chỉ cốt nói rằng trong một thế giới
mà sức mạnh phân tán như vậy, chẳng ai thấy đâu là cực ngoài cái anh Bắc Kinh.
Nhưng, đứng trên toàn thế giới mà nhìn, anh quy tụ được bao nhiêu nước xung
quanh anh để gọi anh là "cực"?
Thứ
tư, thế giới ngày nay mất tin tưởng ở toàn cầu hoá, ít
ra là trong các xã hội phương Tây. Giai đoạn những năm 1990 chứng kiến một toàn
cầu hoá lạc quan, kinh tế đi lên, đời sống vật chất dễ dãi, không gian biên
giới rộng mở, thương mãi thông thoáng, Cộng Đồng Âu châu thành lập. Từ những
năm 2010, quang cảnh đảo ngược, bất bình đẳng xã hội gay gắt, Cộng Đồng Âu châu
khủng hoảng, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi bành trướng, kỷ luật tập thể lung lay
trên mọi lĩnh vực: thương mãi, môi trường, khí hậu, luật pháp. Ta đang sống
trong giai đoạn toàn cầu hoá sầu não, chẳng ai thấy đâu là lộ trình dẫn dắt thế
giới đi vào tương lai. Thế giới ngày nay là một thế giới quờ quạng đi tìm
phương hướng.
Thế nhưng, thứ năm, trên đây là nói
chuyện toàn thế giới, chưa nói chuyện vùng, chưa nói "trật tự vùng".
Bởi vì mỗi vùng có thể có một "trật tự" riêng, rõ ràng nhất là Trung
Đông, nơi quy tụ bao nhiêu sức mạnh, từ bên ngoài cũng như từ bên trong, để
chiếm ưu thắng, để áp đặt một trật tự theo ý mình. Cũng rõ ràng không kém là
trật tự mà hai đại cường, Mỹ và Trung Quốc, đang tranh chấp để duy trì một trật
tự cũ hoặc để thiết lập một trật tự mới ở trong vùng của chúng ta. Trên toàn
thế giới, khái niệm "world order" có thể áp dụng
được. Trong vùng của chúng ta, dùng khái niệm "Peace and war" của
Aron coi bộ thích hợp hơn. Chúng ta đang sống chết với Pax Sinica.
Vậy thì, tôi xin kết luận về vấn đề mới và cũ trong
đề tài hội thảo của các anh chị: trên toàn thế giới, nhưng đặc biệt là trong
vùng của chúng ta, cái mới vẫn là thế giới vô phương hướng, nhưng mới hơn nữa,
mới toanh, là sự xuất hiện của hai tay hảo hán đưa yếu tố cá nhân tính vào
trọng điểm của quan hệ quốc tế, dù là "world order" hay là
"Peace and war": Tập và Trump. Đừng tưởng quan hệ quốc tế chỉ có quốc
gia và phi quốc gia. Còn có vai trò của các cá nhân cao thủ lái thời cuộc đi
vào đường này hay đường khác, tạm kể hai ví dụ rõ nhất ngoài Trump và Tập:
Putin của Nga, Kim Un của Triều Tiên. Tôi đi vào cái mới của các anh chị, cái
"trật tự mới" của đề tài hội thảo.
°°°
Cái gì là mới nơi Trump? Báo Mỹ đặt cho ông nhiều
tên lắm, trước hết ông là chiếc xe ủi đất, một bulldozer. Ông ủi tuốt luốt tận
cả cái nền móng trên đó Pax Americana đã được tạo dựng từ 1945. Lâu nay người
ta đã nói nhiều về suy thoái của Mỹ, thậm chí lãnh đạo của Mỹ chỉ còn là
"lãnh đạo từ đàng sau" ("leadership from behind"),
làm như là có đánh tập hậu ở đàng trước. Dù sao, suy thoái ấy cũng chỉ là tương
đối, "trật tự tự do" mà Mỹ lãnh đạo cũng chỉ lung lay. Lung lay,
Trump ủi: ủi cả chữ ký của Mỹ trên thoả ước đa phương về nguyên tử với Iran, ủi
chữ ký chưa ráo mực của chính ông trên thông cáo chung của G7 vừa tan họp ở
Canada hồi mới toanh tháng 6, nghĩa là ông ủi tan xác pháo cái đa phương chủ
thuyết nòng cốt của trật tự hậu chiến, như trước đó ông đã ủi nào cái ghế của
Mỹ tại UNESCO, nào tiếng vỗ tay hân hoan của Obama khi kết thúc hiệp ước Paris
về khí hậu, nào cái triển vọng cũng của Obama chận ảnh hưởng của Trung Quốc ở Á
châu với hiệp định TPP, nào cái tự do mậu dịch mà chính Mỹ là tác giả khởi
xướng. Đơn phương, ông chấm dứt hiệp ước tự do mậu dịch với Canada và Mê Hi Cô,
ông đe doạ WTO, ông đánh thuế 25% trên thép nhập cảng, 10% trên nhôm. America
First, ông phất cờ đơn phương chủ thuyết, đe doạ cả NATO. Có người hỏi: vậy
thì "học thuyết Trump" về quan hệ quốc tế là gì? Trả lời của một cận
thần: "Chúng tao là
nước Mỹ, mẹ kiếp!"-"We're America, Bitch!"(3) . Định
nghĩa đơn giản, sáng sủa, trực tiếp, tha hồ cử tri vùng Midwest ào ào bỏ phiếu.
Như vậy là để "make America great
again", ông ủi một trật tự thế giới xây trên một số nguyên tắc tối
thiểu, trên luật pháp, dù là tối thiểu, nghĩa là dù sao cũng trên một tiêu
chuẩn gì đó để tiên đoán. Ông ủi luôn cái tiên đoán, ai cũng nói đặc biệt của
ông là bất khả tiên đoán. Chẳng ai biết ông muốn cái gì khi nói, nói cái gì
đáng tin, tin cái gì ông phát ngôn, phát ngôn cái gì ông sẽ làm, làm cái gì ông
tweet tweet. Ông ăn nói, hành động theo cảm tính, xung động, bất kể đúng sai,
ai cũng nói thế. New York Times viết: chiến tranh mà ông làm
là chiến tranh với sự thật, nhá nhem giữa thật và dối. "Một khi sự phân
biệt giữa thật và giả mất đi, tờ báo viết thế, cái gì cũng có thể xảy ra".
Lộng giả thành chân. "Lời nói của nước Mỹ, tờ báo viết tiếp, ngày nay gần
như chẳng có ý nghĩa gì nữa. Vậy mà an ninh của thế giới đã dựa trên lời nói
của nước Mỹ từ 1945"(4) .
Cái ấy là mới. Tuy rằng không hẳn mới. Bởi vì Trump
chỉ là triệu chứng, hiện tượng, không phải là nguyên nhân của cái mới. Giống
như một căn bệnh âm ỉ từ lâu, nay mới phát sốt, Trump chỉ là cái nhiệt kế của
căn bệnh hỗn loạn đã từ lâu không có thuốc. Trump đổ thêm hỗn loạn vào hỗn loạn
của câu hỏi: thế giới này đi về đâu? Cái mới là ông đổ hỗn loạn bằng cái lưỡi,
lưỡi vốn không xương, và nơi lưỡi ông có hoả tiển.
Ngược hẳn với Trump bất khả tiên đoán, họ Tập láng
giềng của ta muốn cái gì, lời nói phân minh, hành động đâu vào đấy, miệng nói
chân bước, bước nào bước nấy vững như chân voi. Ông nói: diệt tham những thì
cọp cũng giết mà ruồi cũng giết. Tưởng ông diệt tham nhũng. Đâu phải chỉ thế!
Ông sát thủ! Giết đối thủ. Rồi ông mới sửa hiến pháp, tất cả răm rắp dâng tất
cả quyền lực vào tay ông. Một tay nắm tất cả quyền lực cho đến mãn đời, cái ấy
là mới. Không phải chỉ mới trong nội bộ: mới trong tham vọng toàn cầu. Đừng ai
trên thế giới tiên đoán trong năm năm nữa, tay này sẽ lên, tay kia sẽ xuống, xu
hướng này sẽ thắng, xu hướng kia sẽ bại, chỉ một tay ấy thôi, chỉ độc một mình
Tập, chỉ một thảm đỏ ấy thôi, chỉ một thảm đỏ trải ra dưới một bước chân. Để
làm gì vậy? Để "xã hội Trung Quốc thêm một lần nữa là vô địch trên hoàn
cầu". Để "tăng cường danh dự đối mặt với Tây phương", tôi trích Global
Times, tờ báo của đảng. Từng bước, với viễn cảnh rõ mồn
một trước mắt, Tập bước, tiền bạc đi trước, súng ống chưa cần, vành ngoài là
con đường tơ lụa, vành trong là mẫu hạm hàng không, ngôn ngữ trương ra với thế
giới là "phát triển", không phải buôn bán, hoà bình là "hoà bình
trong thịnh vượng kinh tế", không phải hoà bình chỉ là hết chiến tranh. Củ
cà rốt của Pax Sinica sao mà hấp dẫn quá vậy.
Trên mặt trận ý thức hệ, "trật tự với gương mặt
của Trung Quốc" sẽ thắng thế "trật tự dân chủ tự do" đang sụp đổ
từng mãng trước mắt thiên hạ. Tương lai sẽ đưa tất cả thế giới, kể cả thế giới
Tây phương, vào con đường của các "chính thể cứng rắn", từ giã mẫu
mực Tây phương đã hấp thụ từ hơn trăm năm nay. Báo chí Tây phương gọi Tập là
Tân Hoàng Đế. New York Times gọi Trump là thằng hề. Ông vua
thì xông tới, ai cũng thấy, cũng biết, cũng sợ. Thằng hề thì tuyên bố rút lui.
Nói thiệt hay nói dỡn vậy? Thật hay giả? Chưa bao giờ, trên thế giới hậu 1945
này, trật tự thế giới không lệ thuộc vào trật tự vùng. Một giọt dầu hoả ở Trung
Đông đủ làm Mỹ gây đảo chánh lật bao nhiêu chính phủ phe tả trong vùng ấy.
Chẳng lẽ bây giờ có kẻ miệng hùm gan sứa đến độ khoanh tay lặng nhìn một cái
lưỡi bò liếm sạch Biển Đông? Rút lui? Rút lui khỏi một vùng mà ai cũng gọi là tụ
điểm của tranh chấp nay và mai?
Cho đến nay, hai sách lược về an ninh đối đầu nhau
trong vùng Đông Á: sách lược của Mỹ xây dựng trên một hệ thống đồng minh và
sách lược của Bắc Kinh xây dựng trên một an ninh vùng không có sức mạnh can
thiệp từ bên ngoài. Đồng minh của Mỹ - Nhật và Hàn Quốc - đang tự hỏi về mức độ
khả tín của cam kết nơi người anh hùng địa ốc đã đi vào Bạch Ốc như đi vào sòng
bạc. Dù ông thủ tướng Hàn Quốc hoan nghênh hết mình với cuộc gặp gỡ lịch sử
giữa Trump và Un, ông đang tự hỏi về mấy câu thốt ra từ cái lưỡi của ông anh
đồng minh chỉ trích việc đóng quân của Mỹ ở nước ông là quá tốn tiền, việc tập
trân với quân đội của ông là khiêu khích đối phương. Bộ ông anh muốn rút mà chả
cần bàn trước? Thủ tướng Nhật thì lo ra mặt. Một viễn tượng sinh tử như vậy về
an ninh mà ông bị gạt ra ngoài từ đầu đến cuối cái bắt tay giữa một cáo già và
một cáo trẻ trong một trò ngoại giao chớp nhoáng mà thế giới chưa từng biêt,
một thứ ngoại giao chợ búa đặc sản của Trump mà giới bình luận ở Pháp gọi là ngoại
giao côn đồ, diplomatie de voyou, ký đó rồi xoá đó, chửi đó rồi tán
đó. Bán linh hồn cho một tay poker? Bởi vậy, dù tin hay không, cả Nhật và Hàn
Quốc đều phải lo tự lực cánh sinh, tăng cường sức mạnh. Đồng minh mà còn lo
vậy, huống hồ chưa phải là đồng minh như nhiều nước khác trong vùng? Đây là cả
vấn đề đối với Việt Nam.
°°°
Các anh chị thân mến, quân sư quạt mo không phải là
nghề của chúng ta. Ta biết gì mà nói? Nhưng đã trót cả đời chơi với chữ nghĩa,
trót mỗi năm một lần gặp nhau để dốc bầu tâm sự, thôi thì cũng moi ruột ra hàn
huyên với nhau một chút lý thuyết thật ra cũng chẳng mới mẻ gì.
Chẳng có gì mới mẻ, giỏi như Khổng Minh thì mưu
chước cũng chỉ có thế này thôi: khi bạn bị một đại cường uy hiếp, hoặc là bạn
vẫy đuôi thần phục, hoặc là bạn cưỡng lại bằng cách tạo thế quân bình. Ngôn ngữ
ngày nay gọi thái độ đầu là bandwagon, sách lược sau là balancing.
Thời Tam Quốc, cái thế chân vạc Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền là balancing. Thời
hậu-Napoléon, cái thế ngũ cường Đức-Pháp-Áo-Anh-Nga nhắm không cho một nước nào
mạnh nhất trổi lên để đe doạ là balancing. Cổ kim Đông Tây chiến
lược chỉ có ngần ấy: hoặc là anh tự làm mình mạnh hơn, hoặc là anh làm đối thủ
yếu bớt, hoặc là anh tự túc tự cường, hoặc là anh liên kết với những kẻ khác
đồng thuyền đồng hội. Có điều mới là thế này, so với hồi chiến tranh lạnh: thời
ấy, với "trật tự lưỡng cực", quân bình chủ yếu là quân bình quân lực,
nguyên tử với nguyên tử, vũ khí với vũ khí, sách vở gọi đó là hard-balancing;
ngày nay, ở thời đại toàn cầu hoá, khi quan hệ hỗ tương chằng chịt lợi ích kinh
tế, quân bình chủ yếu nhắm vào những trọng điểm không phải vũ khí, sách vở gọi
đó là soft-balancing. Chẳng có ai ngây thơ để nghĩ đến một tình
trạng trăm phần trăm soft, tay phải soft thì tay
trái cũng phải lo hard. Con chó có cái đuôi để vẫy thì cũng có hàm
răng nhọn để cắn. Tuy vậy, lý thuyết tràn đầy trong sách vở từ vài chục năm nay
quy tụ xung quanh soft-balancing.
Sách vở nói: từ sau chiến tranh lạnh, đặc biệt là từ
sau chiến thắng lẫm liệt của Bush (con) ở Irak năm 2001, các cường quốc bậc
trung, e ngại cái vị thế nhất cực của Mỹ, chăm lo tăng cường quan hệ đa phương,
đa cực, để làm soft-balancing với Mỹ. Trung Quốc là rõ ràng
nhất. Khom lưng, giấu tham vọng trong bụng, thậm chí tự nhận mình là thành phần
của thế giới kém mở mang, học bắt chuột không phân biệt đen trắng, nhũn nhặn
với cả Nga để liên minh, và cứ thế con vịt hoá thành thiên nga. Cái đặc biệt
của soft là ở chỗ ấy: tránh tranh chấp trực tiếp, tránh nổ.
Ngày trước, Trung Quốc làm soft-balancing với Mỹ. Ngày nay,
khi Bắc Kinh đã trở thành đại cường số một trong vùng, có sách lược nào khác
đối với các nước bậc trung ngoài soft-balancing? Nhật đang làm gì?
Ấn Độ đang làm gì? Làm cái việc mà tác giả có tiếng Kenneth Waltz cho là xuất
phát từ bản năng, chẳng cần ai dạy dỗ.
Tất nhiên, ai cũng biết: soft-balancing không
phải là phương sách mầu nhiệm để duy trì hoà bình, ổn định. Bởi vì quân bình
không bao giờ trường cửu, tuyệt đối. không bao giờ ở trạng thái tĩnh. Cái cán
cân lực lượng ấy, chỉ cần bên này thay đổi một chút là bên kia cũng phải thay
đổi theo, riết một hồi cái cân biến thành cái thang, bên này tăng lên chín
lạng, bên kia tăng chẵn một cân, ổn định và bất ổn định tiếp nối nhau, ai biết
chuyện gì sẽ xảy ra? Bởi vậy, trong sách lược soft-balancing, ngoại
giao là vô cùng cần thiết để tránh nổ. Về mặt này, Trung Quốc cũng là tổ sư bồ
đề, cái nước đã sản sinh ra cái lưỡi Tô Tần, nghe nó dụ kiến trong tổ cũng bò
ra.
Đó là lý thuyết. Trên thực tế thì sao ngoài Nhật, Ấn
và Úc là ba nước lớn? Tôi xin miễn đi vào chi tiết, số liệu v v..., chỉ mượn
kết luận chung chung trong một bài viết công phu trên New York Times(5) mà
chắc nhiều anh chị ở đây đã đọc. Tôi trích nguyên văn: "Nhiều nước đang
tiến dần đến Trung Quốc và xa dần trật tự cổ truyền do Mỹ lãnh đạo. Các nước
khác đang hy vọng chơi với cả hai phe". Xin đọc thêm: tất cả đều bàng
hoàng khi Trump rút lui khỏi TPP, vì hiệp ước này được xem như ý muốn của Mỹ
xấn vào Á châu để chận đứng ảnh hưởng của Trung Quốc. Đây là cú rút lui tiêu
biểu nhất báo hiệu cho giai đoạn chuyển tiếp từ cái thế lãnh đạo của Mỹ qua một
tình trạng gì đó không xác định được, nhưng ít dính chặt hơn cho các nước nhỏ
vào một trong hai cực. Thế mạnh của Mỹ về quân lực vẫn còn đứng đầu ở Á châu,
nhưng với quân lực càng ngày càng tăng và sức mạnh của kinh tế càng nàng càng
nặng, Bắc Kinh kéo lại gần hơn với mình các đồng minh lâu năm của Mỹ như Phi
Luật Tân, Indonesia. Về mậu dịch, các nước ở Á châu trao đổi với Trung Quốc
nhiều hơn với Mỹ, có khi gấp đôi. Lệ thuộc về kinh tế nhiều hơn cho phép Trung
Quốc thưởng phạt về thái độ chính trị, thưởng phe thân, phạt phe chống. Mỹ chỉ
còn thắng thế về buôn bán khí giới, dù sao cũng còn giữ được ảnh hưởng về quân
lực và ngoại giao. Nhiều nước trong 20 nước Á châu nằm trong cái thế không thể
lựa chọn được giữa lợi ích kinh tế với Trung Quốc và nhu cầu an ninh với Mỹ.
Giỏi thì đu dây như Duterte của Phi, đứng giữa chửi toáng cả tổng thống Mỹ, hạ
nhục Obama, mà Mỹ vẫn cam tâm tiếp tục bảo đảm an ninh, trong khi Trung Quốc
hài lòng ban phát cho vài nhượng bộ. Dở thì chịu ảnh hưởng cả hai, đứng giữa để
cố giữ độc lập, nhưng độc lập cũng nửa vời mà liên kết thì cũng non già không
hẳn. Đó là tình trạng rất dễ rơi vào, và chúng ta chỉ biết cầu chúc tổ tiên ban
sức mạnh để Việt Nam không rơi vào. Sức mạnh đó, chúng ta gọi là nội lực. Và
thế nào là nội lực áp dụng trong sách lược balancing?
Thứ
nhất, xin đừng đi vào lô gích sửa hiến pháp của Tập Cận
Bình. Họ Tập cần an ninh tuyệt đối ở bên trong, trong nội bộ, để bung ra bên
ngoài. Tập trung mọi quyền hành, đập chết mọi tư tưởng khác mình từ trong
trứng, lô gích cứng rắn ấy có thể hợp với Trung Quốc; lô gich ấy không hợp với
Việt Nam. Bởi lẽ đa số nhân dân đại Hán ủng hộ Tân Hoàng Đế; bởi lẽ tự hào dân
tộc bốc men lên tận trời xanh; bởi lẽ Trung Quốc thành công vượt mức, làm chóng
mặt cả thế giới. Ta có được chừng ấy yếu tố không mà bắt chước cứng rắn? Chừng
nào dân với chính quyền không phải là đũa một đôi mà là hai chiếc, chừng ấy cái
hoạ bên ngoài đồng lõa với cái hoạ bên trong, địch nó biết tỏng ruột gan, balancing chỉ
làm trò cười cho nó.
Thứ
hai, hãy làm sáng tỏ: thế nào là "đảng lãnh
đạo". Người Việt Nam thừa trí thức để trả lời câu hỏi đó, chỉ thiếu cơ
hội. Chỉ cần lấy một câu của Hồ Chí Minh, người đã sáng lập ra Đảng, cũng đủ để
thấy ánh sáng. Câu đó nghe nói đã mòn tai: Đảng phải "trung với nước hiếu
với dân". Nghĩa là gì? Là Đảng không phải là mục đích, Đảng chỉ là phương
tiện. Mục đích là dân, là nước. Nếu vì đại hoạ mà nước mất, nghĩa là mục đích
mất, phương tiện có còn chăng? Ở cái thế đứng mũi chịu sào của Việt Nam, người
lãnh đạo là người dám chết trước. Người dám nói, như cha ông đã nói: "Nếu
Bệ Hạ muốn hàng, trước hết hãy chặt đầu thần đã". Trung hiếu là như vậy.
Lãnh đạo là như vậy. Có vậy, dân mới tin. Dân mới tin thì mới đồng lòng. Dân đồng
lòng thì mới balancing. Không thì giơ hai tay.
Thứ
ba, đừng khinh thường luật pháp quốc tế khi ta đang ở
trong thế yếu. Trung Quốc nói: luật ấy là do trật tự của Mỹ đặt ra. Đúng vậy.
"Hoà bình bằng luật pháp" ("La paix par le droit")
là chủ ý của các nước thắng trận trong thế chiến thứ hai khi thành lập Liên Hợp
Quốc. Nhưng bây giờ Trung Quốc cũng được hưởng lợi quá chừng khi ngồi trong Hội
Đồng Bảo An có quyền phủ quyết. Trong bao nhiêu chục năm cho đến bây giờ, Trung
Quốc ra rả tuyên truyền ta đây là người bảo vệ kiên cường nhất của chủ quyền
quốc gia, căn bản của luật quốc tế, có bao giờ chê luật ấy do ai đặt ra đâu?
Thì Biển Đông cũng có luật, và luật ấy cũng bảo vệ cho ta. Kẻ yếu tự bảo vệ
mình bằng mọi khí giới, súng đạn là khí giới nhưng luật pháp cũng là khí giới.
"Giữa kẻ mạnh và kẻ yếu, giữa người giàu và người nghèo, giữa ông chủ và
tên nô lệ, chính tự do mới là áp bức, chính luật pháp mới là giải phóng",
dù cho tác giả của câu danh ngôn đó - Lacordaire - là người chống tự do, câu
nói vẫn đáng giá. Bởi vậy, khi ta dùng luật để bảo vệ quyền lợi của ta ở bên
ngoài, hãy chứng tỏ cho thế giới biết rằng nước ta cũng là một nước trọng luật,
một nước văn minh biết thượng tôn luật pháp ở bên trong. Chứ miệng nói một đường mà tay
bắt cóc đối thủ trên nước người ta thì ai tin ta? Trung Quốc làm thế
giới sợ, khí giới của ta là làm cho thế giới thương, ít ra là đứng về phe ta
khi có tranh chấp. Ngoại giao là gì nếu không phải là chiếm cảm tình? Làm soft-balancing mà
lếu ngoại giao, mà thế giới không tin lời mình nói nữa, thì kết quả lộn ngược
về phía kẻ mạnh.
Thứ
tư, cũng vì lẽ ấy, thế giới khó tin ta đứng giữa khi
chứng kiến, ủa, đối thủ gì mà anh em đồng chí, đọc chung một đèn, học chung một
sách, hồng kỳ một lá cùng bay? Vị trí của Việt Nam đáng lẽ phải được cả thế giới
ủng hộ vì cả thế giới đều ngán ông ngoáo ộp. Hãy nghĩ lại mà xem cái vốn cảm
tình to lớn của ta trên thế giới trong chiến tranh vừa qua: với cái vốn ấy, ta
đâu có làm chư hầu của ai? Và hãy nghĩ lại cái chữ domino trong
chiến tranh ngày trước. Bản thân chúng ta đã cực lực phản đối sách lược dùng
chữ ấy để biện minh cho việc tham chiến của Mỹ ở Việt Nam: con cờ Nam Việt Nam
nhào thì cả Đông Nam Á đều có cơ nhào theo. Chúng ta phản đối vì Việt Nam lúc
ấy bị làm con cờ trong bối cảnh lưỡng cực. Chúng ta không chôn cái chữ ấy để
bây giờ phải đào lên: tự nó đúng hay sai tùy bối cảnh. Trong bối cảnh hiện nay,
có nước nào không ủng hộ Việt Nam kiên cường bất khuất trước nước lũ Trung
Quốc? Cái thế mạnh đó, ta chưa làm cho thế giới thấy được, thế giới chỉ thấy đặc
khu, đặc khu, đặc khu, ba đặc khu chụm lại, có luật an ninh mạng yểm trợ, còn
gì Việt Nam nữa để balancing? E rằng thế giới đang nghĩ chúng ta
đùa dai.
Thứ
năm, trong thời đại chằng chịt hỗ tương kinh tế này lại
còn nhăng nhện thêm giữa lợi ích kinh tế và quyền lực. Điều khiển cái nhăng
nhện ấy, cái gì Trung Quốc cũng mua được, mua đất: dễ ợt, mua người: khó gì!
Tham nhũng là một cái chợ bán đồ xôn, tha hồ mua rẻ(6). E rằng một
ngày nào đó, từ điển của một số nước nào đó sẽ định nghĩa từ "Nhà nước
tham nhũng" là một Nhà nước trong đó "nó" mua hết. Và trẻ con
các nước đó học chia động từ "tham những" theo văn phạm của Pháp sẽ ê
a: "Tao tham nhũng / Mày tham nhũng / Thằng kia tham nhũng / Chúng tao
tham nhũng / Chúng mày tham nhũng / Chúng nó mua hết". Vậy thì làm thế nào
để đừng bán trôn cho "nó"? Không có cách nào khác: Tao khác mày. Mày
học bài của mày, tao học bài của tao. Chính thể của mày, mày giữ. Chính thể của
tao, tao theo. Nhưng thế nào là một chính thể khác? Thế nào dẹp đi cái chợ tham
nhũng? Không có cách nào khác: kiểm soát. Luật kiểm soát. Dân kiểm
soát. Dư luận kiểm soát. Chỉ chừng đó thôi mà suy ra, người Việt Nam thừa thông
minh để biết thế nào là một chính thể khác. Khác nó thì mới xa được nó trong
cái đầu, thì mới đứng được ở giữa để balancing. Thì thế giới
mới thấy Việt Nam thực sự độc lập, đứng đầu sóng gió.
Các anh chị thân mến, chúng ta hãy tự hào là trí
thức trói gà không chặt. Trói gà không chặt, nhưng trói lý tưởng thì chặt lắm.
Lý tưởng ấy, bao giờ cũng chỉ một, ở bất cứ "trật tự" nào, đế quốc,
bá quyền, nhất cực, lưỡng cực, đa cực, vô cực, cân bằng cứng, cân bằng mềm...
Lý tưởng đó không có phe phái, không phân biệt ở ngoài hay ở trong chính quyền,
sáng như gương, không xỏ xiên diễn tiến, ngay như cây thông giữa trời, bởi vì
đó là lý tưởng của cả dân tộc, niềm ao ước chưa bao giờ được thành hình từ thời
hết thực dân. Lý tưởng ấy, chúng ta đừng ngại lặp đi lặp lại hàng năm, mỗi kỳ
hội thảo. Nguy biến đe doạ càng ngày càng nặng, an ninh giữ vững được hay
không, trước hết là đũa có cùng gắp một đôi hay không, và để một đôi cùng sống
cùng chết với nhau, không có cách nào khác : luật
pháp, dân chủ, dư luận sáng suốt. Hãy khác đi để tồn tại. Y chang
như "nó" thì có khác gì tự mình Hán hoá, tự mỉnh bóp chết tim trẻ, tự
mình bịt mắt xung phong vào An Nam Đô Hộ Phủ ngàn xưa?
Cao
Huy Thuần
Nguồn:
Bài viết cho Hội thảo "Việt Nam và trật
tự thế giới mới", Warsaw 12/13-7-2018.
Chú
thích:
(1) Laurent Fabius, Diễn văn đọc tại École
Polytechnique ngày 25-6-2013.
(2) Gaïdz Minassian, Un monde de moins en moins
occidental", Le Monde 15-5-2018.
(3) Jeffrey Goldberg trong The Atlantic, trích bởi
Le Monde 13-6-2018. Chữ "diplomatie de voyou" cũng nằm trong số này.
(4) Roger Cohen, Tethered to a Raging Buffoon called
Trump, New York Times, 13-4-2018.
(5) Max Fisher and Audrey Carlsen, How China is
Challenging American Dominance in Asia, New York Times, 9-3-2018. Tương tự như
vậy, xem thêm Mitsuru Obe, China's power closing in on US, warns think tank,
Nikkey Asian Review, 8-5-2018.
(6) Ví dụ nhan nhản, gặp đâu nói đấy: Trong vùng Nam
Thái Bình Dương, Trung Quốc cung cấp tràn đầy như nước lũ tiền cho không, nhưng
nhất là cho vay với lãi suất nhẹ. Từ 2006 đến 2016, Trung Quốc đã viện trợ 1,78
tỷ đô la cho các nước trong vùng. Tiền ấy nhắm trước tiên đến việc xây dựng hạ
tầng cơ sở và đặc biệt được đánh giá cao vì không ràng buộc gì vào điều kiện
phải sử dụng tốt như Tây phương đòi hỏi. Ngày 9-1-2018, bộ trưởng Úc về phát
triển quốc tế và Thái Bình Dương, Concetta Fierravanti-Wells, tố cáo Trung Quốc
xây "những con đường chẳng dẫn đến đâu cả" và
những "công thự vô dụng"... Ở Vanuatu, sát cạnh Úc,
nơi Bắc Kinh thâm nhập sâu nhất, Trung Quốc đầu tư trên 30 chương trình, trong
đó có dự án xây một dinh thự chính thức mới của thủ tướng, được công bố đầu
tháng tư vừa qua. Túi tiền của Trung Quốc là sâu hơn cả, chuyên gia về chính
sách Trung Quốc Anne-Marie Brady, trường đại học Canterbury, nói như vậy. Tất
nhiên là Úc rất lo về sự thâm nhập của Trung Quốc trong vùng của mình. Đây là
vấn đề an ninh mà tổng thống Macron của Pháp đã đề cập đến trong cuộc công du
Nouvelle-Calédonie đầu tháng 5 năm nay. (Trích báo Le Monde 2-5-2018. Nhan đề
của bài báo đáng cho ta chú ý: "Các nước Tây phương lo ngại về ảnh hưởng
của Trung Quốc trong vùng Thái Bình Dương"). Cũng nên nhắc lại: Pháp bán
máy bay chiến đấu Rafale cho Ấn Độ, bán tàu ngầm cho Úc, thiết lập với hai nước
ấy một "chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương", quyết định mỗi năm một lần
phái một trong ba chiến hạm lớn gọi là "bâtiment de projection et de
commandement" vào Biển Đông trên hải phận quốc tế mà Trung Quôc gọi là
lãnh hải của minh. Đầu tháng 6 vừa rồi, Pháp lại còn chơi ngon, mời hải quân
Anh và Đức lên một trong ba chiếc tàu ấy, tàu Dixmude, tạo hình ảnh một hợp tác
Âu châu giữa Biển Đông. Tất nhiên Bắc Kinh phản đối sự vụ ấy, xem đó là
"phương hại đến an ninh của Trung Quốc" (Le Monde 27-6-2018). Đây là
những miếng đất mà ngoại giao của ta phải triệt để khai thác. Tây phương làm ăn
với Trung Quốc nhưng đâu phải Tây phương không ngán.
Thêm một chuyện nữa, vẫn gặp đâu nói đấy, về thị
trường mua bán tham nhũng, lần này ở Mã Lai. Najib Razak vừa mất chức thủ tướng
sau tuyển cử ngày 9-5 vừa qua. Một trong những nguyên nhân: tham nhũng. Ông
tham nhũng thế này, trích nguyên văn câu nói của tân thủ tướng: "Najib yêu
tiền đến nỗi, ngày ông ta chết, ông ta nghĩ có thể hối lộ tên gác cổng thiên
đường". Tân thủ tướng nói thêm: Tham nhũng, Najib bán cả nước cho Tàu. Tân
chính phủ tuyên bố sẽ thương thuyết lại với Trung Quốc về những món tiền vay và
xem xét lại về những dự án xây dựng hạ tầng cơ sở (Le Monde 12-5-2018).
Ở đâu cũng vậy...
No comments:
Post a Comment