NỖI
ĐAU SẼ KHÔNG DỨT NẾU KHÔNG BIẾT TẠI SAO ĐAU
https://www.facebook.com/ChinhLuanTranTrungDao/posts/124732509655820
Em học sinh Việt Nam nằm
gối đầu lên cặp sách, im lìm như đang ngủ trưa trong một bức hình đăng trên một
tờ báo Mỹ. Các nhân viên y tế cứu thương chỉ vì quá thương xót mà tưởng như em
còn biết đau nên đặt đầu em cao trên chiếc cặp vậy thôi. Không, em không ngủ
trưa, em chết rồi. Em là một trong 32 học sinh (báo Hòa Bình đăng con số là 23),
trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường, bị Việt Cộng pháo kích chết lúc 2:55 trưa
ngày 9 tháng 3, 1974.
Ảnh : https://www.facebook.com/photo?fbid=124732092989195&set=pcb.124732509655820
Em bị giết chỉ hơn một
năm trước ngày chấm dứt chiến tranh để từ đó dân tộc Việt Nam chịu đựng 46 năm
trong độc tài đảng trị đến hôm nay.
Ai giết 32 em học sinh
trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường?
Ảnh : https://www.facebook.com/photo/?fbid=124732042989200&set=pcb.124732509655820
Các em chết vì đạn pháo
kích của Việt Cộng. Vâng. Nhưng đa số tuổi trẻ VN sinh ra và lớn lên sau 1975
không biết sự thật đó.
Các em chỉ được nhồi sọ
về cái chết của “10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc.”
Ngã ba Đồng Lộc thuộc xã
Đồng Lộc, Hà Tĩnh, nằm trên con đường chiến lược nối vào dãy Trường Sơn nên
trong thời chiến thường bị Mỹ ném bom. Ngã ba Đồng Lộc gắn liền với chuyện 10
nữ thanh niên xung phong bị bom của Không lực Hoa Kỳ ném trúng ngay miệng hầm.
Tiểu đội gồm 10 cô gái trẻ. Tất cả đều cùng quê hương Hà Tĩnh và đều chết tức
khắc. Người nhỏ nhất là Vũ Thị Hà chỉ mới 17 tuổi.
Ai giết 10 cô gái Ngã ba
Đồng Lộc?
Nếu hỏi 100 em học sinh
Việt Nam, thì đúng 100 em sẽ trả lời do bom của “Đế quốc Mỹ.”
Nhưng nếu không có “đế
quốc Mỹ” rồi 10 cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc và hàng triệu thanh niên miền Bắc vô
tội có chết hay không?
Nếu hỏi 100 em học sinh
Việt Nam, thì đúng 100 em sẽ trả lời “Không.”
Thật ra, không có Mỹ các
cô gái thanh niên xung phong đó cũng có thể chết. Nếu không chết tại Ngã Ba
Đồng Lộc rồi cũng một ngã ba khác, một con đường khác, một thôn làng Việt Nam
khác.
Số phận Việt Nam vốn đã
nằm trong sinh tử lệnh của Mao và các lãnh đạo CS Trung Hoa không chỉ trước
Điện Biên Phủ, sau hiệp định Geneve, hiệp định Paris, biến cố Hoàng Sa, Trường
Sa mà ngay từ đầu thập niên 1920 khi đảng CSVN còn đang thai nghén trong nhận
thức của Hồ Chí Minh.
Đường lối chiến tranh của
Mao trong bài phát biểu tại Diên An: “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất
của cách mạng là chiếm lấy quyền lực xuyên qua đấu tranh võ trang và giải quyết
xung đột bằng chiến tranh. Đây là nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác
Lê-nin, và phải được thực hiện một cách toàn diện tại Trung Quốc và toàn thế
thế giới.”
Đường lối đó chi phối
toàn bộ chính sách của đảng CSVN. Quan hệ giữa hai đảng CS Việt Nam và Trung
Quốc có khi nắng khi mưa, khi ấm khi lạnh nhưng đường lối đó chưa hề thay đổi.
Đáp ứng lời yêu cầu của
Hồ Chí Minh trong chuyến thăm viếng Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ từ ngày 22
tháng 6 đến 22 tháng 7 năm 1955, các đảng CS đó đã bắt đầu gởi súng đạn ồ ạt
đến miền Bắc Việt Nam. Tổng số viện trợ quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa khác giúp cho Hà Nội là 2 triệu 362 ngàn 581 tấn, trong đó bao
gồm một danh sách dài của các loại vũ khí, từ 3 triệu 600 ngàn khẩu súng cá
nhân cho đến 458 máy bay chiến đấu và hàng vạn đại pháo, hỏa tiễn nhiều loại.
Tài liệu đó không phải
được trích dẫn từ các “thế lực thù địch” hay “thành phần phản động” nào mà là
tài liệu của Viện Lịch sử Quân sự Hà Nội.
Trong tác phẩm Trung Quốc
lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li
liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Cộng trong chiến tranh Việt
Nam:
“Mặc dù đang mạnh dần,
Trung Quốc vẫn lo ngại sự hiện diện ngày càng mở rộng của Mỹ tại Đông Nam Á.
Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã can thiệp một lần nữa. Tháng Bảy năm 1965, Trung
Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiễn địa-không
(SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội
Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiễn phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM,
xây dựng và sửa chữa đường xá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của
Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm nhiều đơn vị Bắc Việt vào
Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư
đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967,
có 170 ngàn quân Trung Quốc hiện diện.”
Từ năm 1955 và nhất là từ
1959, khi giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam quyết định mở đường Trường Sơn
“giải phóng miền Nam bằng phương tiện võ lực,” số lượng cố vấn Mỹ tại miền Nam
cũng chỉ là những nhóm nhỏ và tập trung vào việc bảo vệ và xây dựng căn nhà dân
chủ vừa được dựng lên.
Hơn bao giờ hết, các nền
dân chủ non trẻ tại Á Châu cần sự giúp đỡ của thế giới tự do. Cũng vào thời
điểm đó, các nước Cộng Hòa ở châu Á như Mã Lai, Nam Hàn, Singapore, Đài Loan
đang vượt qua quá khứ thực dân hay chiến tranh Quốc Cộng để vươn lên cùng nhân
loại. Trên cánh đồng miền Tây nước Việt, trên bến cảng Singapore, trong nhà máy
ở thủ đô Seoul, những con người với niềm hy vọng mới đang hăng hái dựng lại căn
nhà mới.
Niềm hy vọng của nhân dân
miền Nam Việt Nam vừa lóe lên đã vụt tắt vì đảng CSVN quyết định chiếm Việt Nam
Cộng Hòa dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” như Hồ Chí Minh đã tuyên bố.
Người bình thường chỉ
biết nhìn một biến cố từ hậu quả nhưng người có ý thức phải hiểu tận nguyên
nhân, bởi vì mọi việc xảy ra trên đời, mọi sự vật có mặt trên đời đều có nguyên
nhân.
Cả 32 em học sinh trường
tiểu học Cai Lậy, Định Tường và 10 người chị Việt Nam của các em chết ở Ngã Ba
Đồng Lộc chỉ chết vì một nguyên nhân: Tham vọng CS hóa toàn cõi Việt Nam của
lãnh đạo CSVN và CS Quốc Tế.
Dù có Mỹ hay không có Mỹ,
dù bằng phương tiện hòa bình hay khủng bố thì chủ nghĩa cộng sản độc tài chuyên
chính vẫn phải được thiết lập trên toàn cõi Việt Nam. Mục tiêu đó đã được đóng
khung tô màu từ trong đề cương thành lập đảng CSVN 1930.
Do đó, không ai khác mà
chính các lãnh đạo CSVN và CS Quốc Tế đích thực là thủ phạm đã giết 2.5 triệu
dân Việt Nam trên hai miền Nam Bắc trong đó có 10 cô gái thanh niên xung phong
ở Ngã Ba Đồng Lộc và 32 em học sinh tiểu học Cai Lậy, Định Tường.
Giờ phút này, tôi tin
rằng, trong căn phòng nhỏ ở Virginia, trong căn gác hẹp ở Paris, Santa Ana,
Sydney, Berlin… bên những ngọn đèn heo hút ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, hàng ngàn
người Việt Nam quan tâm đến tiền đồ dân tộc vẫn còn canh cánh bên lòng một câu
hỏi chưa tìm được cách trả lời trọn vẹn “Tại sao sau 46 năm CSVN vẫn còn tồn
tại?” Bởi vì dân tộc ta yếu hèn, phân hóa? Bởi vì đảng CSVN còn quá mạnh? Bởi
vì cả hai lý do trên?
Thật ra, dân tộc ta không
yếu hèn và đảng CS cũng không quá mạnh, nhưng chính vì các thành phần có khả
năng thúc đẩy sự chuyển hóa xã hội không có một nhận thức và tầm nhìn đúng về
bản chất của cuộc chiến Việt Nam.
Sau 46 năm, một bộ phận
không nhỏ người dân Việt Nam vì bị tẩy não nên chưa nhận ra hay chỉ vì bàn tay
dính máu đồng bào nên không đủ can đảm thừa nhận nguồn gốc sâu xa của cuộc
chiến.
Không hiểu đúng tại sao
chủ nghĩa CS đến Việt Nam sẽ không có một cách thích hợp để đẩy chủ nghĩa CS ra
khỏi Việt Nam. Và tương tự, không hiểu đúng quá khứ sẽ không có hành động đúng
vì tương lai đất nước.
Nỗi đau của dân tộc Việt
Nam sẽ không dứt nếu không biết tại sao đau.
Trần Trung Đạo
No comments:
Post a Comment