“Lướt
sóng” mối đe dọa Trung Hoa: Góc nhìn của học giả nhà nước
Võ Văn Quản
- Luật Khoa
03/03/2021
https://www.luatkhoa.org/2021/03/luot-song-moi-de-doa-trung-hoa-goc-nhin-cua-hoc-gia-nha-nuoc/
Ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tập Cận Bình nâng
ly sau khi Việt Nam và Trung Quốc ký kết một loạt hiệp định song phương vào năm
2015 tại Hà Nội. Ảnh: Reuters.
Cáo buộc về sự “bạc nhược” của chính quyền Việt Nam
đối với Trung Quốc luôn chiếm một phần quan trọng trong hầu hết các thảo luận
về mối quan hệ bang giao giữa hai quốc gia.
Tuy nhiên, các học giả nhà nước lại không xem đó là
“bạc nhược”. Theo họ, đó là những tính toán chính trị hợp lý, cân nhắc địa
chính trị và kinh tế xã hội đương đại, cùng những đúc kết từ hàng ngàn năm Bắc
thuộc.
Thông qua nghiên cứu “Vietnam: riding the Chinese tide” (Việt Nam: lướt trên ngọn
sóng Trung Hoa), Tiến sĩ Đỗ Thanh Hải thuộc Viện Nghiên cứu Biển Đông, Học viện
Ngoại giao Việt Nam đã trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và thú vị về
những luận điểm của các học giả nhà nước liên quan đến mối quan hệ Việt –
Trung. Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí Pacific Review năm 2017.
Trung Quốc mạnh –
Việt Nam mạnh?
Tiến sĩ Đỗ Thanh Hải mở đầu nghiên cứu bằng việc
khẳng định Trung Quốc luôn là mối đe dọa dễ hình dung nhất trong lịch sử Việt
Nam. Tác giả dùng bốn tiêu chuẩn về rủi ro trong quan hệ quốc tế bao gồm: sức
mạnh tổng hợp (aggregate power), sức mạnh công kích (offensive power), sự gần
gũi về địa lý (geographic proximity) và ý định gây hấn (aggressive intentions).
Đến tận ngày nay, Trung Quốc luôn hội tụ mọi yếu tố
cần có để trở thành mối rủi ro chính trị – đối ngoại thường trực mà Việt Nam
phải đối mặt trong tương lai dài hạn. Điều này càng đặc biệt đúng khi thế lực
kinh tế cùng với tiềm lực quân sự nói chung và hải quân nói riêng của Trung
Quốc dần được khẳng định và kiểm chứng.
Vậy điều gì khiến cho giới lãnh đạo Việt Nam không
quá lo lắng về sự trỗi dậy của chủ nghĩa “dĩ Hoa vi trung” như nhiều học giả
phương Tây?
Điều gì khiến cho giới lãnh đạo Việt Nam
không quá lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc? Ảnh minh họa: The Economist.
Tác giả Hải cho rằng, dù Trung Quốc xuất hiện nổi
bật trong lịch sử Việt Nam trong các cuộc chiến chống ngoại xâm, quan hệ hai
nước đã trải qua hàng thế kỷ hòa bình. Ông phân tích rõ thêm, trong hơn hai
thiên niên kỷ tồn tại, người láng giềng phương Bắc chỉ có ý định xâm lược Việt
Nam trên dưới chín lần. Ông có vẻ cho rằng đây là một con số thấp ấn tượng nếu
so với sự ổn định bang giao giữa hai đế chế phong kiến Nam – Bắc.
Chính vì lẽ này, chính quyền Việt Nam hiện đại hóa
quân đội nhưng không sa lầy vào chạy đua vũ trang; đẩy mạnh đa phương hóa tranh
chấp nhưng không rơi vào “vòng tay” của các thế lực khác để kìm hãm sự phát
triển của người bạn láng giềng.
Tác giả lập luận rằng, sự trỗi dậy và lớn mạnh của
Trung Quốc có lợi cho Việt Nam ở nhiều góc độ.
Thứ nhất, Trung Quốc sẽ tiếp tục có thể là một hình
mẫu phát triển theo tiêu chuẩn cộng sản được kiểm chứng quốc tế cho Việt Nam.
Thứ hai, một Trung Quốc giàu mạnh chắc chắn sẽ đi kèm với hàng loạt cơ hội làm
ăn cho người láng giềng kề cận phương Nam với môi trường văn hóa – chính trị –
xã hội tương đồng.
Từ đó, tác giả khẳng định Hà Nội hoàn toàn chính
xác khi không cố gắng thách thức sức mạnh lẫn sự phát triển của Trung Quốc.
Phương pháp lâu dài hơn là tận dụng mối quan hệ bất bình đẳng không thể xóa bỏ
giữa Trung Quốc và Việt Nam để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam theo
cách tốt nhất có thể.
Chính quyền Việt
Nam đơn giản học theo cha ông?
“Vừa hợp tác, vừa đấu tranh” (cooperation cum
struggle) nổi lên thành một trong những nguyên tắc chủ đạo của Việt Nam trong
mối quan hệ với Trung Quốc. Nguyên tắc này được cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu ra trước Quốc hội vào tháng 11/2014.
Tác giả Hải cho rằng đây là chỉ dấu cho thấy chính
quyền Việt Nam sẽ không bao giờ bỏ qua lựa chọn thỏa hiệp và hợp tác ngay cả
trong thời điểm ngoại giao căng thẳng nhất giữa hai quốc gia.
Ông ghi nhận, Việt Nam đã rất cương quyết giữ vững
lập trường khi giàn khoan Hải Dương 981 tiến vào vùng biển Việt Nam. Nhưng khi
Bắc Kinh rút giàn khoan, cũng chính Hà Nội đã không ngần ngại gửi quan chức cấp
cao sang để đối thoại và hàn gắn mối quan hệ rạn nứt.
Giàn
khoan Hải Dương 981 đặt tại vùng biển Việt Nam năm 2014. Ảnh: Zing
Hành động này có thể khiến các nhà quan sát quốc tế
bất ngờ, cũng như khiến người dân Việt Nam tức giận. Song theo tác giả, đây là
lối ngoại giao truyền thống giúp Việt Nam tồn tại cạnh Trung Quốc suốt hàng
ngàn năm.
Ông khẳng định, dù các hoàng triều Việt Nam chiến
thắng quân phương Bắc trong hầu hết các xung đột trong lịch sử, bên chiến thắng
mới là bên phải cử sứ thần sang chầu bên thua trận để bày tỏ sự ngưỡng mộ với
thiên triều, cũng như đề nghị được công nhận và nối lại mối quan hệ triều cống
(tributary system).
Logic của loại chiến lược vốn trở thành phong tục
này là người Việt Nam, hoặc chí ít là giới chóp bu của Việt Nam, luôn xem quyền
lực của Trung Quốc là thứ quyền lực về bản chất, quyền lực tự nhiên. Tác giả
phân tích, miễn là thiên triều đứng ngoài nền chính trị nội bộ của Việt Nam,
chính quyền Việt Nam tự cổ chí kim ít ai dám từ chối nhận mình là một tiểu
quốc, một chư hầu của Thiên hoàng Trung Hoa (Chinese Celestial Emperor).
Đó là lý do các lãnh đạo phong kiến Việt Nam luôn
khiêm nhường nhận mình là “Vương” (King) trong giấy tờ liên lạc với Trung Quốc,
nhưng vẫn tự nhận mình là “Hoàng đế” (Emperor) khi có chiếu dụ trong quốc gia
hoặc liên lạc với vương quyền khác trong Đông Nam Á.
Sự trỗi dậy của
Trung Quốc ở Đông Nam Á: Lỗi tại Washington
Một nhận định thú vị khác của tác giả là việc cho
rằng chính quyền Việt Nam luôn lo lắng và theo dõi rất sát sự trỗi dậy của
Trung Quốc, trong khi Hoa Kỳ bị gặm nhấm bởi ám ảnh của “cuộc chiến chống khủng
bố” (War on Terror).
Vào đầu những năm 1990, không quốc gia nào ở Đông
Nam Á có thiện cảm với Trung Quốc. Trung Quốc luôn được xem là mối đe dọa tiềm
tàng.
Tuy nhiên, sau 10 năm kể từ khi kênh đối thoại
Trung Quốc – ASEAN được thành lập (China – ASEAN Dialogue), Trung Quốc đã chủ
động tổ chức và vận hành hơn 27 cơ chế hợp tác khác nhau với ASEAN. Trong cùng
thời điểm, chỉ có bảy cơ chế hợp tác Hoa Kỳ – ASEAN đang hoạt động. Sự quan tâm
nồng thắm của Trung Quốc với Đông Nam Á rõ ràng vượt trội những gì mà anh chàng
đại cường đến từ Bắc Mỹ thể hiện.
Các nhà lãnh đạo ASEAN và Thủ tướng Trung
Quốc Lý Khắc Cường (thứ 5 từ trái sang) tại Hội nghị ASEAN – Trung Quốc năm
2018. Ảnh: AFP.
Vì lý do này, trong lúc quân đội Hoa Kỳ gây thất
vọng với nhiều đồng minh với xung đột không hồi kết tại Afghanistan và Iraq,
hầu hết các nước Đông Nam Á (ngoại trừ Việt Nam) dần không còn ngờ vực sự trỗi
dậy của Trung Quốc, thậm chí cho rằng đó là chuyện hiển nhiên. Từ đó, Trung
Quốc trở thành một đối tác tin cậy của khu vực.
Đặc biệt, tác giả cho rằng chính Hà Nội là người đã
nhắc nhở chính phủ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, thông qua đại sứ quán tại Việt Nam,
rằng Trung Quốc đang tăng cường hoạt động hành lang ở Đông Nam Á.
Cũng chính Hà Nội đã nhận ra rằng chiến lược thâm
nhập sâu của Trung Quốc vào nội bộ ASEAN không chỉ là chủ động (active), mà là
hung hăng (aggressive).
Từ đó, các nhà ngoại giao Việt Nam chỉ ra rằng, nếu
Hoa Kỳ không có biện pháp phù hợp và có đường lối ngoại giao mềm mỏng hơn (liên
quan đến các vấn đề như dân chủ ở Myanmar), ảnh hưởng của Trung Quốc tại ASEAN
sẽ gây hệ quả nghiêm trọng đến tính thống nhất và hiện trạng chính trị của toàn
khối.
Qua ngôn ngữ và lập luận của Tiến sĩ Hải, Việt Nam
trở thành quốc gia duy nhất nhận thức được sự nguy hiểm của Trung Quốc đối với
tương lai của ASEAN và bình ổn của Biển Đông. Song không ai nghe họ.
***
Bị đẩy vào thế đã rồi, chính quyền Hà Nội không còn
cách nào khác là tận dụng những gì họ có để đảm bảo rằng sự vẹn toàn lãnh thổ
của Việt Nam không bị xâm hại, cùng lúc đó không tạo nên bất kỳ căng thẳng nào
giúp Trung Quốc có thể viện dẫn đến quyền sử dụng vũ lực quân sự của họ.
Tác giả khẳng định Hà Nội đã chủ động “thoát Trung”
về mặt kinh tế với hàng loạt hiệp định, gồm 15 hiệp định đối tác và 10 hiệp
định đối tác toàn diện với tất cả những quốc gia Việt Nam cho rằng có tầm ảnh
hưởng quan trọng với an ninh kinh tế – chính trị của mình.
Qua lăng kính của những tác giả như Tiến sĩ Hải,
chính quyền Việt Nam hiện lên vô cùng khôn khéo và thành công trong mối quan hệ
với Trung Quốc.
No comments:
Post a Comment