Nhân
Ngày 21.6 : MÕ NGÀY XƯA KHÔNG ĐỨNG VỀ PHE CÁNH NÀO
Nguyễn Văn Sự & Nguyễn Xuân Diện
Thứ Hai, 21 tháng 6, 2021
https://xuandienhannom.blogspot.com/2017/09/thang-mo.html
Annamite
town crier. Upper-Tonkin, in 1902 - Thằng Mõ Annam tại miền thượng du Bắc Kỳ.
THẰNG MÕ
Nguyễn Văn Sự & Nguyễn Xuân Diện
Tạp chí Xưa và Nay số 2 – 1995, trang 23.
Trong cộng đồng làng xã Việt Nam thời trước có một nhân vật đáng để ý song bấy
lâu nay chưa được nghiên cứu nhiều – đó là nhân vật mõ làng. Bài viết này thử
tìm hiểu về nhân vật mõ làng dưới một số khía cạnh, nhằm góp vào công cuộc
nghiên cứu nông thôn Việt Nam trong lịch sử.
Về thời điểm xuất hiện: Hiện chưa tìm được tư liệu thành văn nào, có tính chất
hành chính quốc gia, là lệnh chỉ của vua chúa cho các làng xã có mõ, qui định về
chức phận và phạm vi hoạt động của mõ làng. Nhưng có hai tư liệu rất quan trọng
giúp “xác định niên đại” của nhân vật này là: “Hồng Đức quốc âm thi tập”
và vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính. Trong Hồng Đức quốc âm thi
tập (ở phần Phụ lục) có bài Thằng Mõ. Bài thơ này
đã được các cụ Phan Trọng Điềm và Bùi Văn Nguyên khẳng định không phải là của
Lê Thánh Tông, mà của người đời sau. Nhưng theo chúng tôi nếu không phải là của
Lê Thánh Tông thì cũng là sáng tác của người thế kỷ XV chứ không thể sớm hoặc
muộn hơn. Mẹ Đốp trong chèo cổ Quan Âm Thị Kính là một vợ mõ,
và vở chèo này ra đời vào thế kỷ XV là điều đã được các nhà nghiên cứu khẳng định.
Mẹ Đốp
Hai tư liệu
này cho phép khẳng định nhân vật mõ ra đời trước khi nó được đưa vào văn học rất
lâu. Vì rằng, nhân vật mõ ở đây không còn là kết quả của phản ánh bình thường,
mà nó đã trở thành một ấn tượng đã quá quen thuộc và đáng ca ngợi (đó cũng là cảm
hứng chủ đạo của tác giả khi viết bài thơ, trong Hồng Đức Quốc âm thi tập).
Và hơn thế, hình tượng thằng mõ còn được quần chúng lựa chọn để bộc lộ gửi gắm
khát vọng tự do của mình (chèo cổ Quan Âm Thị Kính). Có thể nói
nhân vật mõ gắn liền với cái đình làng.
Những đặc trưng của nghề mõ:
Trước hết mõ làng là người truyền tin (mang thông tin, truyền
thông) trong xã hội phong kiến; khi mà phương tiện thông tin đại chúng còn chưa
phát triển. Khác với gia nô, tá điền – những người làm cho cá nhân một ông chủ
hoặc vài ông chủ nhất định, mõ không phải là của riêng ai, mà là của cả làng,
gánh trách nhiệm mà cả làng giao phó, ta tạm gọi họ là công xã nô. Mõ không phải
là người canh tác thuê cho một gia đình như điền nô, không lĩnh ruộng cấy rồi nộp
tô như tá điền cũng không phục vụ dịch vụ cho một gia đình như gia nô. Mõ là
người lao động, nhưng lao động của mõ là lao động dịch vụ chứ không phải là lao
động sản xuất. Và do vậy mõ không liên quan nhiều và trức tiếp tới vấn đề ruộng
đất và công cụ lao động.
Phục vụ của mõ không phải chỉ là lý trưởng cùng các chức dịch trong làng xã,
mà là cả cộng đồng làng xã. Khi làng vào đám, cả gia đình mõ được huy động
ra “việc làng”. Khi chia phần, dân làng chia cho mõ một cỗ riêng, nếu ăn không
hết thì màng về…
Mõ đứng ngoài các cuộc tranh chấp giữa các phe, giáp trong làng xã. Lý
trưởng họ này đổ, lý trưởng họ khác sẽ thay thế, nhưng vẫn cần đến mõ và không
hề vì thế mà thay cả mõ. Do “gần gũi” các chức dịch, mõ biết nội tình các cuộc
tranh giành giữa các ca nhân hay dòng họ, nhưng mõ không ủng hộ một cá nhân hay
phe cánh nào. Mõ không tham gia các hành động bạo lực của chức dịch đối với các
phần tử gây rối hay những người chậm thuế ( việc ấy đã có lính lệ làm).
Tóm lại mõ không có hành vi tiêu cực trong đời sống cộng đồng. Trường hợp mõ bị
lợi dụng là có, nhưng không phải là nhiều.
Thằng
Mõ.
Người làm
mõ bị dân làng khinh rẻ, xa lánh, nhưng không ai căm ghét như là đối với bọn trộm
cắp, lưu manh, và cũng không ai muốn dây vào họ. Con cái mõ không được phép đi
học, cũng không ai giao du, kết thân với mõ. Con trai, con gái của những người
làm mõ phải lấy chồng thiên hạ và cũng chỉ lấy con nhà mõ, cho dù các chàng
trai cô gái ấy đẹp trai, xinh xắn, do không phải lam lũ vất vả, lại khéo ăn
khéo nối. Vô hình chung, nghề mõ trở thành nghề cha truyền con nối. Có họ làm
mõ, cũng có cả làng làm mõ.
Thời điểm nghề mõ ra đời, cùng đặc trưng của nó cho phép khẳng định, tổ chức
làng xã ở Việt Nam, chủ yếu là miền đồng bằng và trung du Bắc Bộ lúc đó đã đạt
được một sự ổn định nhất định về cơ cấu. Những làng quá nghèo, hoặc làng nào mới
lập thì cũng không có mõ. Và, mõ cũng chỉ có ở cấp làng (xã) chứ không có mõ
xóm, mõ tổng hay huyện, phủ , tỉnh (trấn, xứ).
Trong xã hội cũ, mõ bị thành kiến rất nặng nề. Họ là dân ngụ cư, thường ở rìa làng
(cho dù họ có tiền thì cũng không thể được mua mảnh đất cao ráo ở sâu trong
làng).
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật nhào cả ngàn năm của chế độ phong kiến, nghề
mõ đã trở thành quá khứ. Nhiều mõ đổi nghề, sống bình thường bên cạnh những người
dân khác trong làng, thành kiến của dân làng có giảm, nhưng không phải là tan
biến. Con cháu họ có tham gia công tác, đi học, nhưng bạn bè cũng ít gần: bản
thân họ lại mặc cảm, tự ti, nên học không giỏi, ảnh hưởng uy tín rất hạn hẹp
nên thành đạt ít. Thời tạm chiếm, ở những vùng địch lập tề, cũng có khôi phục
nghề mõ.
Đến khi cải cách ruộng đất, nhiều mõ được giao công tác, chia ruộng đất, nhà cửa
, trâu bò, nông cụ, nhưng số biết làm ăn thì rất it. Họ thường bỏ làng ra thành
phố; lên miền ngược làm đủ mọi nghề và khá vất vả vì không quen lao động chân
tay và mặc cảm khá nặng. Họ thường giấu kín tung tích và ngại tiếp xúc cùng
nhưng ai biết gốc gác của mình.
Nghề mõ, và người làm mõ có lẽ là sản phẩm đặc thù của chế độ công xã nông thôn
Việt Nam mà chủ yếu là ở đồng bằng và trung du Bắc bộ. Xung quanh nhân vật mõ
và nghề mõ chắc còn nhiều vấn đề, chúng tôi thiết tưởng rằng cũng rất đáng được
các nhà sử học, dân tộc học, xã hội học quan tâm nghiên cứu, trong sự nghiên cứu
về nông thôn Việt Nam trong lịch sử nói chung.
*Xin cảm ơn bạn Hà
Thiên Hương đã gõ lại giúp bài này.
Nhân vật mõ làng trong cộng đồng làng
xã Việt Nam thời trước
No comments:
Post a Comment