KIẾN NGHỊ KHẨN
CẤP THÀNH LẬP ĐOÀN KIỂM TRA LÀM RÕ OAN SAI VỤ ÁN NGUYỄN VĂN CHƯỞNG!
https://www.facebook.com/levanhoa256/posts/2943629939215388
Kính gửi: Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
Đồng kính gửi: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Tôi là Luật sư Lê Văn Hòa, sinh năm 1956
(nguyên hàm Vụ trưởng Vụ 4-Ban Nội chính Trung ương); địa chỉ: Đội 3, Minh Tân,
Minh Trí, Sóc Sơn, Hà Nội; điện thoại: 0946256256. Tôi là người tư vấn, hỗ trợ
pháp lý cho ông Nguyễn Trường Chinh, sinh năm 1950 (địa chỉ: Bình Dân, Kim
Thành, Hải Dương) trong việc kêu oan cho con là tử tù Nguyễn Văn Chưởng, bị kết
án tử hình với cáo buộc là chủ mưu trong vụ án giết người tại Hải Phòng ngày
14/7/2007, mà nạn nhân là Nguyễn Văn Sinh, cán bộ Công an phường Đông Hải 2, quận
Hải An, Hải Phòng.
Năm 2013-2014, với tư cách là Tổ trưởng Kiểm
tra án oan của Ban Nội chính Trung ương, tôi đã góp phần minh oan thành công
cho một số công dân bị hàm oan. Trong đó có 2 vụ được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng
Nam đánh giá là nghiêm trọng, phức tạp, kéo dài nhất trong lĩnh vực nội chính của
tỉnh Quảng Nam trong vòng 15 năm qua (các cơ quan tố tụng tỉnh Quảng Nam đã
hình sự hóa 2 vụ vi phạm hành chính, khởi tố, bắt giam, truy tố oan 2 công dân
là ông Lương Hạnh, Giám đốc Công ty TNHH Cổ phần Quảng Cường, Quảng Nam và ông
Nguyễn Mười, người từng được mệnh danh là “Trùm cổ vật” miền Trung – Căn cứ vào
báo cáo, đề xuất của Tổ công tác chúng tôi, Lãnh đạo Ban Nội chính TW và Ban
Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Quảng Nam đã chỉ đạo việc khắc phục hậu quả, minh oan,
trả lại danh dự, uy tín và số tài sản đã thu giữ, phong tỏa trái pháp luật cho
ông Lương Hạnh và ông Nguyễn Mười).
Về vụ án Nguyễn
Văn Chưởng:
Đầu năm 2014, Tổ công tác chúng tôi báo cáo
Lãnh đạo Ban Nội chính TW: “Nguyễn Văn Chưởng bị kết án tử hình oan, do có nhiều
sai sót nghiêm trọng trong thu thập, đánh giá chứng cứ. Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân Tối cao cũng nhận thấy điều đó nên đã Kháng nghị Giám đốc thẩm vụ
án này. Vì thế, Ban Nội chính TW cần tham mưu cho cấp có thẩm quyền thành lập
Đoàn Kiểm tra để làm rõ”. Nhưng thật khó hiểu: Ngay sau cuộc làm việc với Tổ
Công tác chúng tôi, với sự có mặt của ông Nguyễn Sơn (Phó Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao), Lê Quý Vương (Thứ trưởng Bộ Công an), Trưởng ban Nội chính TW
Nguyễn Bá Thanh đã quyết định “Ban Nội chính Trung ương không nghiên cứu, đề xuất
về vụ án Nguyễn Văn Chưởng nữa!”.
Từ 2014 đến nay, cá nhân tôi đã gửi nhiều bản
Kiến nghị kiểm tra vụ án này đến Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và các cơ
quan chức năng, nhưng thật khó hiểu, không một cơ quan, cá nhân nào xem xét, giải
quyết!
Hôm nay, một lần nữa, tôi Kiến nghị Bộ Chính
trị và Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo thành lập một Đoàn Kiểm tra liên ngành
có đủ thẩm quyền và uy tín để kiểm tra làm rõ vụ án này, tránh hàm oan cho người
dân.
Trân trọng!
Người kiến nghị
Luật sư Lê Văn Hòa
Tôi xin chỉ rõ những
vi phạm nghiêm trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng vụ án Nguyễn Văn Chưởng:
1. Vi phạm thủ tục tố tụng trong bảo vệ, khám nghiệm
hiện trường; thu giữ, quản lý vật chứng của vụ án:
- CQĐT không tổ chức bảo vệ giữ nguyên hiện
trường vụ án; việc thu giữ, quản lý vật chứng của vụ án rất tùy tiện: Cảnh sát
Phạm Hồng Quang đem áo mưa, áo cảnh sát, dép…của nạn nhân Sinh gửi ở phòng bảo
vệ Công ty Neu Hope; còn điện thoại di động và khẩu súng K59 + 1 băng đạn còn 1
viên của anh Sinh thì anh Quang cầm và mang đi đâu không rõ, đến hơn 1h ngày
15/7/2007 mới được lập biên bản thu giữ và đến 17h cùng ngày mới làm thủ tục
niêm phong (BL: 517; 535).
- Vụ giết người xảy ra hồi 21h30’ ngày
14/7/2007, nhưng đến 15h30’ ngày hôm sau mới tổ chức khám nghiệm hiện trường.
- Việc anh Sinh đi dép hay đi giầy khi bị chém
cũng chưa được làm rõ.
Nhân chứng Phạm Hồng Quang khai anh Sinh đi
dép (BL: 517); nhân chứng Nguyễn Văn Phước cũng khai anh Sinh đi dép (BL: 535);
nhưng nhân chứng Đặng Thái Sơn khai anh Sinh đi giầy đen có dây (BL 523: khai 2
lần; BL: 524).
2. Đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, thiếu khách quan:
- Dấu vết để lại trên áo và thi thể nạn nhân
khẳng định nạn nhân không chỉ bị tấn công, tác động tại hiện trường, mà có thể
đã bị tấn công, tác động trước đó ở một địa điểm khác:
+ Bản Giám định pháp y của Viện khoa học hình
sự kết luận: Trên cơ thể nạn nhân, ngoài các dấu vết do các loại hung khí có cạnh
sắc nhọn gây nên còn có các vết hằn xây xát da mềm đỏ nâu ở vùng lưng do vật cứng
có cạnh dài tiếp xúc hẹp gây ra; ngoài ra còn có các tổn thương bầm tụ máu vùng
thắt lưng hai bên do vật tày gây nên. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã kết luận
hung khí của nhóm Chưởng là dao, kiếm chứ không có hung khí nào là vật tày (vậy
có chăng, trước khi bị chém bằng dao, kiếm là vật sắc, nhọn ở cổng Nhà máy thép
Đình Vũ thì anh Sinh đã bị tác động, tấn công bằng vật tày ở địa điểm khác?).
+ Tại Biên bản giao nhận vật chứng thu được tại
hiện trường vụ án, ngoài xe máy, dao, kiếm…còn thống kê, bàn giao 1 khẩu trang
trắng kẻ xanh (BL:698), nhưng không được làm rõ chiếc khẩu trang đó là của ai và
có liên quan đến vụ án hay không?
+ Biên bản giám định không kết luận vân tay ở
cò khẩu súng K59 thu tại hiện trường là của ai (vậy lấy cơ sở nào kết luận anh
Sinh đã bắn? và cần phải làm rõ khẩu súng đó anh Sinh có được cấp phép sử dụng
không? Đơn vị nào cấp? cấp từ khi nào?...).
+ Thời gian sinh hoạt của nạn nhân Sinh trước
khi bị chém ở cổng Nhà máy thép Đình Vũ cũng chưa được chứng minh một cách
khách quan là ở đâu, làm gì, tiếp xúc với ai để tạo nên thương tích trên thân
thể như Bản Giám định pháp y của Viện khoa học hình sự đã kết luận: “Các vết hằn
xây xát da mềm đỏ nâu ở vùng lưng do vật cứng có cạnh dài tiếp xúc hẹp gây ra;
ngoài ra còn có các tổn thương bầm tụ máu vùng thắt lưng hai bên do vật tày gây
nên”, để làm căn cứ xác định nguyên nhân cái chết của nạn nhân.
+ Nhân chứng Phạm Hồng Quang (chiến sỹ CAP
Đông Hải 2) khai (BL:515): Ngay sau khi anh Sinh bị bắn, anh Quang nhìn thấy có
một người lạ đi cùng Đặng Thái Sơn (chiến sỹ CAP Đông Hải 2) tới chỗ anh Sinh
đang nằm hôn mê tại hiện trường, nhưng không làm rõ người lạ đó là ai và đến với
mục đích gì?
- Việc quy kết Hoàng, Trung, Chưởng chém nạn
nhân Sinh nhằm cướp tài sản là chưa thuyết phục. Cả 2 cấp xét xử (ST, PT) cũng
như Giám đốc thẩm đều đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, suy đoán ép tội (quy
kết Chưởng là chủ mưu và bọn Chưởng chém anh Sinh vì mục đích cướp tài sản).
Căn cứ vào diễn biến vụ án do chính các cơ
quan tiến hành tố tụng kết luận, thì trong suốt quá trình chuẩn bị phạm tội
cũng như quá trình phạm tội của bọn Chưởng không có sự bàn bạc, phân công vai
trò của từng người; không có sự phân công việc chuẩn bị hung khí; không có sự
bàn bạc về cách thức sẽ đi cướp; đặc biệt không bàn đến việc sẽ giết người để
cướp tài sản (như vậy, không loại trừ nguyên nhân anh Sinh có thể bị chém vì
ghen tuông tình ái hoặc mâu thuẫn xã hội?...).
- Việc xác định Chưởng là chủ mưu và tham gia chém nạn nhân là chưa thực
sự khách quan:
+ Lời khai của các bị cáo và một số nhân chứng
cho thấy có nhiều mâu thuẫn, không đủ cơ sở kết luận Chưởng là chủ mưu, nhưng
không được làm rõ. Các cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu dựa vào lời khai còn
nhiều mâu thuẫn của Trung và Phương (người yêu Trung) để buộc tội Chưởng.
+ KLĐT, Quyết định truy tố và các bản án đều
khẳng định: Khi phát hiện có người đi xe máy ngược chiều, Chưởng điều khiển xe
máy quay lại và chỉ nói một câu “Đây rồi” chứ không có câu nào mang ý nghĩa chỉ
huy hay ra lệnh cho cả bọn nhảy xuống chém nạn nhân.
+ Khi Chưởng dừng xe chỉ có Hoàng và Trung tự
nhảy xuống chém anh Sinh và một trong những nhát chém của Hoàng là nguyên nhân
dẫn đến cái chết của nạn nhân (Bản giám định pháp y số 33-374/2007 ngày
19-7-2007 của Tổ chức giám định pháp y Hải Phòng kết luận: “Nạn nhân bị một số
vết thương tích trên cơ thể, trong đó có 1 vết thương sọ não hở vùng thái dương
phải gây choáng chấn thương sọ não nặng không hồi phục quyết định sự chết của nạn
nhân).
Khi anh Sinh nổ súng thì Trung và Hoàng chạy lại
chỗ Chưởng vẫn đang ngồi đợi trên xe máy và được Chưởng lái xe bỏ chạy.
Các bản khai của nhân chứng Nguyễn Văn Phước
(bảo vệ Công ty Hoàng Gia) chứng kiến quá trình anh Sinh bị chém đều khẳng định:
Có 3 người đèo nhau trên một xe máy, khi gặp anh Sinh chỉ có 2 người ngồi sau
nhảy xuống chém, khi anh Sinh nổ súng thì 2 người đó chạy lại chỗ người cầm lái
vẫn đang nổ máy đứng đợi, sau đó cả 3 bỏ chạy/ lời khai của nhân chứng Phước
phù hợp với lời khai của Chưởng và Trung là Chưởng chính là người điều khiển xe
máy chở Hoàng và Trung (BL: 110; 123; 243; 359…).
+ Có nhiều nhân chứng xác định thời điểm xảy
ra vụ án, Chưởng có mặt ở quê Hải Dương nhưng không được điều tra, đối chất một
cách khách quan.
+ Chưởng khai đã cung cấp bản kê các cuộc gọi
đi, gọi đến điện thoại của Chưởng (0974.863.087) trong thời điểm xảy ra vụ án,
nhưng không được xem xét.
+ Tại các phiên tòa ST, PT, Chưởng và Hoàng đều
phản cung, họ khai rằng việc họ nhận tội ở CQĐT là do bị ép cung, bị đánh đập
(vậy phải chăng đó chính là nguyên nhân làm cho các lời khai của Hoàng, Chưởng,
Trung có nhiều mâu thuẫn?), nhưng không được điều tra làm rõ.
+ Các lời khai mâu thuẫn, hành vi, hung khí và
dấu vết trên cơ thể nạn nhân không phù hợp cũng không được thực nghiệm điều tra
làm rõ…
(Kiến nghị ngày 28/6/2021)
===========================================
.
TÓM TẮT VỤ
ÁN NGUYỄN VĂN CHƯỞNG
https://www.facebook.com/levanhoa256/posts/2942669859311396
I. DIỄN BIẾN VỤ ÁN
14/7/2007:
Khoảng 21h, trên đoạn đường vào Nhà máy thép
Đình Vũ (An Hải, HP) xảy ra một vụ án mạng, nạn nhân là Nguyễn Văn Sinh, Thiếu
tá CA phường Đông Hải 2, q. Hải An, HP. Do vết thương quá nặng, anh Sinh đã chết
vào 8h sáng 15/7/2007 tại bệnh viện.
3/8/2007:
Rạng sáng, CQCSĐT CATP HP bắt giữ Nguyễn Văn
Chưởng (sinh 1983, quê: Bình Dân, Kim Thành, HD), là công nhân Công ty TNHH Đại
Phát (HP), đã có vợ, không tiền án, tiền sự. Bị bắt cùng ngày với Chưởng là Đỗ
Văn Hoàng và Vũ Toàn Trung.
4/8/2007:
Nguyễn Trọng Đoàn, sinh 1987 (em trai Chưởng),
xin được giấy xác nhận của một số nhân chứng khẳng định họ đã gặp Chưởng trong
buổi tối 14/7/2007 tại quê ở Hải Dương (tức là Chưởng không có mặt tại hiện trường
vụ án ở HP vào thời điểm xảy ra án mạng - 2 địa điểm cách xa nhau khoảng 40
km).
10/8/2007:
Đoàn mang đơn khiếu nại của mẹ cùng giấy xác
nhận của các nhân chứng nộp cho CQCSĐT thì liền bị bắt khẩn cấp về tội “Che giấu
tội phạm”. Sau này, Cáo trạng cũng quy kết Đoàn đã hướng dẫn các nhân chứng viết
đơn, giấy xác nhận để khai báo gian dối và cung cấp tài liệu sai sự thật, che
giấu hành vi phạm tội để cho Chưởng được ngoại phạm.
3/11/2007:
Báo Tiền Phong có bài “Vụ sát hại một Thiếu tá
CA ở Hải Phòng: Những uẩn khúc cần làm rõ”, trong đó, tổ phóng viên điều tra phỏng
vấn và trích dẫn đơn thư của một số nhân chứng khẳng định Chưởng có mặt ở quê
HD vào buổi tối diễn ra vụ sát hại Thiếu tá Sinh (nhân chứng Tuất cho biết: Trước
đó, anh bị CQĐT dọa nên sợ hãi và viết lại lời khai là “không nhớ chính xác”).
27/01/2008:
CQCSĐT ra KLĐT, khẳng định Chưởng đã khai nhận
cùng Trung và Hoàng chém chết Thiếu tá Sinh với mục đích cướp của để lấy tiền
mua heroin.
12/6/2008:
TANDTP Hải Phòng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
đối với Chưởng, Trung, Hoàng, Đoàn. Chưởng, Hoàng, Trung bị kết tội “Giết người”
và “Cướp tài sản” với cáo buộc: Chưởng là chủ mưu (lĩnh án tử hình); Hoàng là kẻ
thủ ác (lĩnh án chung thân); còn Trung 20 năm tù, do khai nhận hành vi phạm tội
+ với tình tiết bà nội được tặng thưởng Huy chương. Đoàn bị kết án 2 năm tù về
tội “Che giấu tội phạm” <Chưởng, Hoàng, Đoàn đã kháng cáo>.
21/11/2008:
TANDTC mở phiên tòa phúc thẩm (chủ tọa Nguyễn
Văn Sơn) tuyên y án sơ thẩm. Chưởng tiếp tục kháng cáo kêu oan với lý do thời
điểm xảy ra vụ án mạng Chưởng không có mặt ở HP mà đang ở quê HD; Hoàng kháng
cáo kêu oan với lý do không tham gia cùng Chưởng, Trung; Đoàn kháng cáo kêu oan
với lý do việc xác nhận Chưởng có mặt ở quê là đúng sự thật.
7/4/2009:
Từ trại giam, Chưởng gửi thư cho mẹ và gia
đình, tường thuật lại toàn bộ vụ việc, khẳng định bị tra tấn, ép cung nên mới
phải nhận tội:
“Họ đánh con tới tấp, con không nói được câu
nào nữa, họ thôi đánh thì con mới thở được và nói là sao các chú đánh cháu,
cháu có làm gì đâu? Và họ nói “Không làm gì thì tao mới đánh, chứ làm gì thì đã
không bị đánh” và họ lại tiếp tục đánh con và dùng còng số 8 treo chỉ có hai đầu
ngón chân cái chạm xuống đất…Khi ở trên trại Kế, Bắc Giang, con đã nghĩ là mình
không thể sống được đến lúc ra trước tòa để nói lên toàn bộ sự thật nên con đã
thêu lên tất cả quần áo chữ Chưởng VT tức “Chưởng vô tội”. Cả vỏ gối con cũng
thêu nữa, còn áo phông trắng con thêu bài thơ kêu oan…”.
18/4/2011:
VKSNDTC ra “Kháng nghị giám đốc thẩm số
09/KN-VKSTC-V3”, đề nghị HĐTP TANDTC xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy bản
án hình sự phúc thẩm đối với Chưởng để xét xử phúc thẩm lại theo hướng giảm
hình phạt cho Chưởng xuống tù chung thân.
7/12/2011:
HĐTP TANDTC (gồm 11 thành viên) do Chánh án
Trương Hòa Bình làm chủ tọa, mở phiên tòa giám đốc thẩm, bác Kháng nghị của
VKSNDTC.
18/4/2013:
Nhân chứng Trần Quang Tuất (cùng quê với Chưởng)
làm đơn xác nhận thời điểm xảy ra vụ án mạng, Chưởng có mặt ở quê HD. Trong
đơn, anh Tuất cũng phản ánh việc bị CA tra tấn, ép cung: “Tôi bị các anh CA dọa
nạt, chửi bới, có lúc khóa tay vào ghế, đấm vào đầu, dọa bắt giam tôi… suốt cả
ngày làm việc các anh CA luôn bắt ép tôi phải viết là: “Không nhớ rõ thời gian
gặp Chưởng, và việc tôi làm giấy xác nhận để gửi cho cơ quan CA trước đây là do
tôi nhớ nhầm. Do lo sợ bị bắt giam, nên tôi đã không còn cách nào khác là phải
viết theo yêu cầu của CA…”.
10/9/2013:
Nhân chứng Trịnh Xuân Trường (bạn của Chưởng)
làm đơn gửi VKSNDTC, xác nhận Chưởng có mặt ở quê nhà HD vào tối 14/7/2007.
Trong đơn, anh Trường cũng cho biết đã bị tra tấn, ép cung: “Chính CA tên Phong
đã dùng thuốc lá đang hút châm bỏng hai bụng cánh tay tôi trước đó. Không chịu
được đòn tra tấn quá dã man và do ít hiểu biết về pháp luật nên tôi phải viết
theo hướng dẫn của CA”.
20/9/2014:
Từ trại tạm giam Trần Phú (HP), Chưởng tiếp tục
làm đơn kêu oan.
13/3/2015:
Trả lời chất vấn của UBTVQH về vụ án Nguyễn
Văn Chưởng, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình cho biết: Viện trưởng VKSND tối cao
có kháng nghị nhưng HĐTP TANDTC bác kháng nghị này. Qua phân tích, TANDTC nhận
định, Chưởng là người cầm đầu vụ giết người, cũng là 1 trong những người chém nạn
nhân. Quyết định của HĐTP là cao nhất, là sau cùng, Chánh án cũng không thể làm
gì được. “Vậy giao Chánh án giải quyết lại thì tôi chịu thua, không có cách nào
làm được…Tất nhiên, nếu có kiến nghị của Quốc hội thì chúng tôi sẽ xem xét thận
trọng”.
II. NHIỀU VI PHẠM
TỐ TỤNG NGHIÊM TRỌNG
1. Vi phạm thủ tục tố tụng trong bảo vệ, khám nghiệm
hiện trường; thu giữ, quản lý vật chứng của vụ án:
- CQĐT không tổ chức bảo vệ giữ nguyên hiện
trường vụ án; việc thu giữ, quản lý vật chứng của vụ án rất tùy tiện: Cảnh sát
Phạm Hồng Quang đem áo mưa, áo cảnh sát, dép…của nạn nhân Sinh gửi ở phòng bảo
vệ Công ty Neu Hope; còn điện thoại di động và khẩu súng K59 + 1 băng đạn còn 1
viên của anh Sinh thì anh Quang cầm và mang đi đâu không rõ, đến hơn 1h ngày
15/7/2007 mới được lập biên bản thu giữ và đến 17h cùng ngày mới làm thủ tục
niêm phong (BL: 517; 535).
- Vụ giết người xảy ra hồi 21h30’ ngày
14/7/2007, nhưng đến 15h30’ ngày hôm sau mới tổ chức khám nghiệm hiện trường.
- Việc anh Sinh đi dép hay đi giầy khi bị chém
cũng chưa được làm rõ.
Nhân chứng Phạm Hồng Quang khai anh Sinh đi
dép (BL: 517); nhân chứng Nguyễn Văn Phước cũng khai anh Sinh đi dép (BL: 535);
nhưng nhân chứng Đặng Thái Sơn khai anh Sinh đi giầy đen có dây (BL 523: khai 2
lần; BL: 524).
2. Đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, thiếu khách quan:
- Dấu vết để lại trên áo
và thi thể nạn nhân khẳng định nạn nhân không chỉ bị tấn công, tác động tại hiện
trường, mà có thể đã bị tấn công, tác động trước đó ở một địa điểm khác:
+ Bản Giám định pháp y của Viện khoa học hình
sự kết luận: Trên cơ thể nạn nhân, ngoài các dấu vết do các loại hung khí có cạnh
sắc nhọn gây nên còn có các vết hằn xây xát da mềm đỏ nâu ở vùng lưng do vật cứng
có cạnh dài tiếp xúc hẹp gây ra; ngoài ra còn có các tổn thương bầm tụ máu vùng
thắt lưng hai bên do vật tày gây nên. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã kết luận
hung khí của nhóm Chưởng là dao, kiếm chứ không có hung khí nào là vật tày (vậy
có chăng, trước khi bị chém bằng dao, kiếm là vật sắc, nhọn ở cổng Nhà máy thép
Đình Vũ thì anh Sinh đã bị tác động, tấn công bằng vật tày ở địa điểm khác?).
+ Tại Biên bản giao nhận vật chứng thu được tại
hiện trường vụ án, ngoài xe máy, dao, kiếm…còn thống kê, bàn giao 1 khẩu trang
trắng kẻ xanh (BL:698), nhưng không được làm rõ chiếc khẩu trang đó là của ai
và có liên quan đến vụ án hay không?
+ Biên bản giám định không kết luận vân tay ở
cò khẩu súng K59 thu tại hiện trường là của ai (vậy lấy cơ sở nào kết luận anh
Sinh đã bắn? và cần phải làm rõ khẩu súng đó anh Sinh có được cấp phép sử dụng
không? Đơn vị nào cấp? cấp từ khi nào?...).
+ Thời gian sinh hoạt của nạn nhân Sinh trước
khi bị chém ở cổng Nhà máy thép Đình Vũ cũng chưa được chứng minh một cách
khách quan là ở đâu, làm gì, tiếp xúc với ai để tạo nên thương tích trên thân
thể như Bản Giám định pháp y của Viện khoa học hình sự đã kết luận: “Các vết hằn
xây xát da mềm đỏ nâu ở vùng lưng do vật cứng có cạnh dài tiếp xúc hẹp gây ra;
ngoài ra còn có các tổn thương bầm tụ máu vùng thắt lưng hai bên do vật tày gây
nên”, để làm căn cứ xác định nguyên nhân cái chết của nạn nhân.
+ Nhân chứng Phạm Hồng Quang (chiến sỹ CAP
Đông Hải 2) khai (BL:515): Ngay sau khi anh Sinh bị bắn, anh Quang nhìn thấy có
một người lạ đi cùng Đặng Thái Sơn (chiến sỹ CAP Đông Hải 2) tới chỗ anh Sinh
đang nằm hôn mê tại hiện trường, nhưng không làm rõ người lạ đó là ai và đến với
mục đích gì?
- Việc quy kết Hoàng,
Trung, Chưởng chém nạn nhân Sinh nhằm cướp tài sản là chưa thuyết phục. Cả 2 cấp xét xử (ST, PT) cũng như Giám đốc thẩm đều đánh giá chứng cứ
thiếu khách quan, suy đoán ép tội (quy kết Chưởng là chủ mưu và bọn Chưởng chém
anh Sinh vì mục đích cướp tài sản).
Căn cứ vào diễn biến vụ án do chính các cơ
quan tiến hành tố tụng kết luận, thì trong suốt quá trình chuẩn bị phạm tội
cũng như quá trình phạm tội của bọn Chưởng không có sự bàn bạc, phân công vai
trò của từng người; không có sự phân công việc chuẩn bị hung khí; không có sự
bàn bạc về cách thức sẽ đi cướp; đặc biệt không bàn đến việc sẽ giết người để
cướp tài sản (như vậy, không loại trừ nguyên nhân anh Sinh có thể bị chém vì
ghen tuông tình ái hoặc mâu thuẫn xã hội?...).
- Việc xác định Chưởng là
chủ mưu và tham gia chém nạn nhân là chưa thực sự khách quan:
+ Lời khai của các bị cáo và một số nhân chứng
cho thấy có nhiều mâu thuẫn, không đủ cơ sở kết luận Chưởng là chủ mưu, nhưng
không được làm rõ. Các cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu dựa vào lời khai còn
nhiều mâu thuẫn của Trung và Phương (người yêu Trung) để buộc tội Chưởng.
+ KLĐT, Quyết định truy tố và các bản án đều
khẳng định: Khi phát hiện có người đi xe máy ngược chiều, Chưởng điều khiển xe
máy quay lại và chỉ nói một câu “Đây rồi” chứ không có câu nào mang ý nghĩa chỉ
huy hay ra lệnh cho cả bọn nhảy xuống chém nạn nhân.
+ Khi Chưởng dừng xe chỉ có Hoàng và Trung tự
nhảy xuống chém anh Sinh và một trong những nhát chém của Hoàng là nguyên nhân
dẫn đến cái chết của nạn nhân (Bản giám định pháp y số 33-374/2007 ngày
19-7-2007 của Tổ chức giám định pháp y Hải Phòng kết luận: “Nạn nhân bị một số
vết thương tích trên cơ thể, trong đó có 1 vết thương sọ não hở vùng thái dương
phải gây choáng chấn thương sọ não nặng không hồi phục quyết định sự chết của nạn
nhân).
Khi anh Sinh nổ súng thì Trung và Hoàng chạy lại
chỗ Chưởng vẫn đang ngồi đợi trên xe máy và được Chưởng lái xe bỏ chạy.
Các bản khai của nhân chứng Nguyễn Văn Phước
(bảo vệ Công ty Hoàng Gia) chứng kiến quá trình anh Sinh bị chém đều khẳng định:
Có 3 người đèo nhau trên một xe máy, khi gặp anh Sinh chỉ có 2 người ngồi sau
nhảy xuống chém, khi anh Sinh nổ súng thì 2 người đó chạy lại chỗ người cầm lái
vẫn đang nổ máy đứng đợi, sau đó cả 3 bỏ chạy/ lời khai của nhân chứng Phước
phù hợp với lời khai của Chưởng và Trung là Chưởng chính là người điều khiển xe
máy chở Hoàng và Trung (BL: 110; 123; 243; 359…).
+ Có nhiều nhân chứng xác định thời điểm xảy
ra vụ án, Chưởng có mặt ở quê Hải Dương nhưng không được điều tra, đối chất một
cách khách quan.
+ Chưởng khai đã cung cấp bản kê các cuộc gọi
đi, gọi đến điện thoại của Chưởng (0974.863.087) trong thời điểm xảy ra vụ án,
nhưng không được xem xét.
+ Tại các phiên tòa ST, PT, Chưởng và Hoàng đều
phản cung, họ khai rằng việc họ nhận tội ở CQĐT là do bị ép cung, bị đánh đập
(vậy phải chăng đó chính là nguyên nhân làm cho các lời khai của Hoàng, Chưởng,
Trung có nhiều mâu thuẫn?), nhưng không được điều tra làm rõ.
+ Các lời khai mâu thuẫn, hành vi, hung khí và
dấu vết trên cơ thể nạn nhân không phù hợp cũng không được thực nghiệm điều tra
làm rõ…
No comments:
Post a Comment